Nhớ đến lòng lại rưng rưng

(VOV5) - Tôi là người Thái đen, sinh ra, lớn lên… đều ở Mường Thanh. Năm nay tôi sang tuổi 87, cũng sắp trọn cuộc đời với đất Điện Biên lịch sử. Thời gian trôi qua với biết bao sự kiện, biến động, đổi thay. Ngắm Điện Biên đổi mới hôm nay, tôi lại rưng rưng nhớ những ngày đã qua.

… Tôi vẫn nhớ như in hôm Pháp nhảy dù xuống xuống Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953. Khi ấy, đồng Mường Thanh đang gặt rộ. Mọi người đang cắm cúi thì trên trời có tiếng máy bay gầm rú. “Máy bay đến bắt người!”, “Chết rồi!”... Tiếng kêu, hét thất thanh. Người chạy, ngã dúi dụi, người nằm xuống chết ngất. Nhưng máy bay không bắt người mà thả xuống những những thằng người dáng như bơi, lưng treo vào cái dù.

 

Nhớ đến lòng lại rưng rưng - ảnh 1

                                                   Quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên 

Suốt đêm hôm ấy không ai ngủ được. Các cụ già bảo - Giặc Pháp lại trở lại rồi, lại khổ rồi!  Mờ sáng hôm sau, vài người liều ra đồng lấy lúa về nhưng một lúc lại quay lại, nói: “Bọn Pháp dựng lều bạt khắp nơi, súng bắn lung tung”. “Thôi chết đói mất thôi. Rồi đây biết kiếm cái gì ăn”, mẹ tôi than thở.

 

Nói thêm về chuyện làm ruộng thời ấy. Giai đoạn đó, dân Thái Mường Thanh một năm chỉ làm ruộng một vụ mùa. Theo “lịch” mưa trời, cứ tháng 5, tháng 6 cấy, cuối tháng 10, tháng 11 gặt. Thóc lúa cơ bản đủ dùng cả năm. Hồi ấy năng suất thấp nhưng người ít ruộng nhiều nên chỉ một vụ cũng đủ ăn. Cứ như thế đến tận khi có kênh mương của công trình thủy nông Nậm Rốm - năm 1969, mới làm hai vụ lúa.

 

Trở lại chuyện đang gặt bị quân Pháp nhảy xuống… Xót của, lo đói khiến mọi nhà phải liều. Ngày thì không dám, nhưng đêm đêm sau đó tôi cùng một số thanh niên vẫn đi “ăn trộm” thóc nhà mình. Thóc kiếm được về, quí như vàng bạc, trước mắt “ăn dè” bữa cơm bữa cháo vì chiến tranh chắc sẽ lâu lắm.

Vụ gặt 1953 ấy thành ra bước ngoặt lịch sử. Những ngày tháng tiếp theo cả lòng chảo bị xới tung hết cả lên. Đồn bốt, dây thép gai, hầm hào tua tủa ngang dọc trên đồi, dưới đồng. Cây cầu gỗ thân quen nối đôi bờ đông tây Nậm Rốm phút chốc bị phá tung, biến mất. Tôi nhớ cây cầu này làm khoảng năm 1947, 1948; nhiều người Thái phải như con trâu, còng lưng kéo gỗ, dựng cột. Những cái cột gỗ dài, to, nặng, lúc cày xuống bãi cát, phải hai chục người và mấy con trâu mà kéo mãi mới chuyển. Cây cầu ấy cho người Thái, người Khơ Mú, người Mông vùng thấp, vùng cao về chợ phiên, sang phố Hoa kiều nhanh chóng tiện lợi. Vậy mà, thoáng chốc giặc Pháp phá luôn, lấy gỗ làm đồn bốt, hầm hào công sự. Cây cầu thân yêu chỉ sống được hơn 7 tuổi, tính đến thời gian bị phá đầu năm 1954. Một cái cầu sắt được làm lên phía trên cầu cũ, nghe nói bọn Pháp dùng máy bay chở lên, rồi lắp ghép. Cầu sắt ngày ấy của bọn Pháp, dân chúng tôi chả được đi, chỉ thấy từ xa một khối đen như ma.

Nhớ đến lòng lại rưng rưng - ảnh 2

                                                                   Quân Pháp theo đường bộ tiến vào Điện Biên

Từ khi Pháp quay trở lại Điện Biên, nhân dân một mặt phải tìm mọi cách trồng cấy (làm ruộng, làm nương xa…) lấy cái ăn duy trì cuộc sống; một mặt giúp đỡ bộ đội... và mặt khác, thường ngày phải đối phó với bọn mắt xanh mũi lõ, da đen nghêng ngang súng ống trong bản ngoài rừng. Bọn Pháp lần này không như hồi trước giải phóng Điện Biên (11/ 1952). Hồi đó chúng vẫn là giặc nhưng nói chung ít cướp bóc, tàn phá, giết chóc. Tôi nhớ những lần đến chợ phiên (nay là khu Bảo tàng tỉnh) lính Tây cũng chen vai, dạo chợ cùng dân bản. Từ đây, không ít các cô gái Thái mường trong mường ngoài đã lấy chồng Âu, Phi và sinh ra những đứa trẻ mũi lõ hay da đen tóc xoăn búi cục. Có lần bản hết muối, mẹ tôi cùng mấy bà mang gà lên đồn đồi A1 đổi.

 

Còn giờ đây, dân tình nghẹt thở, nơm nớp. Có lẽ do thua to ở nhiều nơi nên Pháp phải co cụm lại nơi rừng sâu núi tận này. Chúng quyết cố thủ và điên cuồng bắn phá, hãm hiếp. Bản tôi có cô gái đi rừng lấy măng đến nửa đêm cũng không thấy về. Bà mẹ kêu khóc, mọi người bủa đi các ngả tìm kiếm. Tìm mà không dám đèn đuốc nên đến gần sáng mới thấy cô chỉ còn thoi thóp bên bờ suối. Mọi người thay nhau cõng về, lấy rượu, lá thuốc xoa bóp, bón cháo… Gần sáng cô tỉnh lại, thều thào kể… Có ba thằng lính da đen, nó gọi mang măng lại, rồi cười hô hố, rồi cô không biết gì nữa. Đâu đó các bản đều có con gái bị hãm hiếp. Không thể không đi rừng, mà ở nhà cũng chắc gì an toàn, dân bản nghĩ cách đề phòng, bảo vệ. Dù là chưa chồng nhưng tầm tuổi 15-16 trở lên, cô nào cũng “tằng cẩu” hết. Bọn lính thấy tóc tằng cẩu, hỏi: Mày còn trẻ mà đã có chồng rồi à? Ừ, tôi có chồng rồi. Chồng mày làm gì? Chồng tôi làm lính Pháp. Bọn lính nghe vậy cũng chờn chờn.

  

Con gái đi rừng, đi làm ruộng xa phải có đàn ông đi cùng. Nhưng mình cảnh giác thế bọn quỉ đói vẫn không tha. Con giun không để cho xéo mãi, lần ấy em gái tôi đi rừng, tôi rủ mấy thanh niên bám theo. Cũng là đề phòng thôi nhưng hóa ra thật. Bọn tôi vừa nấp vào bụi hé mắt ra thì ba thằng tây đánh hơi thấy. Tôi ra hiệu cho hai bạn bình tĩnh. Bọn tây đang xì xồ gì đó, một đứa chĩa súng vào đầu em tôi, em tôi quì xuống van xin. Không được, một đứa đã bế thốc em tôi lên… phải hành động ngay. Tôi bấm tay, ba thằng xông ra, đá giáng xuống, gậy phang ngang một lúc rồi lôi em gái chạy. Bọn lính bị bất ngờ, kêu ố ố đuổi theo. Chúng tôi chạy nhanh hơn, vòng vèo theo khe suối, rồi ngoặt ra đường, đến bãi tha ma thì mất hút. Chúng tôi nằm ệp giữa những cái mả. Nghe bên ngoài bụi tre tiếng lên đạn lách cách, tiếng chửi… Một lúc rồi chúng bỏ đi, tôi đưa em gái thoát nạn về nhà.

 

Một tháng sau ngày Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, dân Mường Thanh (chủ yếu là phụ nữ, người già, trẻ em; nam thanh niên đã bị bắt lính, phu phen đào hào công sự cho Pháp) bị gom vào 4 trại tập trung - Co Mỵ, Noong Nhai, bản Mớ, Pá Luống. Ở trại vô cùng cực khổ, phải chui rúc trong những cái lều chật chội. Ăn thì có ít lương thực mang từ nhà đi ngày càng cạn kiệt, phải chia nhau từng vốc gạo, dúm muối, trâu lợn bị đạn pháo bắn chết thối cũng mang về chia nhau nấu ăn. Sinh hoạt thì do ở chật chội nên phóng uế bừa bãi, rác rưởi chồng chất, người ốm la liệt, chết không phải bom đạn cũng lắm. Sống như con lợn đóng gông như thế mà bọn tạo bản, tạo lộng, dân vệ (tay sai cũ của Pháp) vẫn canh phòng nghiêm ngặt, sợ dân liên lạc với Việt Minh.

 

Nhớ đến lòng lại rưng rưng - ảnh 3

Quân Pháp trên cánh đồng Mường Thanh


Tôi và gia đình may mắn trốn vào rừng sâu nên không phải đi trại nhưng cũng chả biết sung sướng một phút. Đói mà chả về nhà lấy thóc được, chỉ củ mài, quả rừng. Ở đây, thấy đạn pháo rất gần mà lo, lo gia đình mình, anh em họ hàng trong trại tập trung. Chiều 25/4/1954, khoảng 2h, tôi nghe tiếng máy bay gầm rú khác thường phía Noong Nhai. Rồi tiếp theo là những cột khói bốc lên đen đặc cả phía Nam lòng chảo. Pháp ném bom xuống Noong Nhai rồi, tôi hét to và chạy đi, quên hết sống chết. Noong Nhai, một cảnh tượng thê thảm đập vào mắt, người chạy hỗn loạn, tiếng kêu khóc “Bố ơi, mẹ ơi, chết hết rồi!”, người chết ngổn ngang, người cụt chân, cụt tay, người bị bom napan đen thui…. Mãi đến tối hôm đó, bộ đội mới vào cùng các gia đình chôn cất người chết, cứu chữa người bị thương. Thật đau xót, nhiều nhà ở Thanh An, Thanh Xương, Sam Mứn, Noong Hẹt… chỉ sống sót một vài người.

 

Khổ quá, tưởng sắp chết hết vì bom đạn, vì đói thì bộ đội mở cánh cửa sướng ra. Chiều 7/5/1954 nghe im tiếng súng, dân Mường Thanh hồi hộp bảo nhau, sắp chiến thắng rồi. Nhưng, gia đình tôi và nhiều nhà khác lúc chiến thắng không ở nơi lòng chảo còn nghi ngút khói lửa mà đang trên đường chạy sang Lào. Nói chuyện này, bây giờ nhiều người sẽ cười, khó hiểu - Tại sao mong chiến thắng, chiến thắng thật rồi lại bỏ đi? Chuyện là thế này… mấy ngày đầu tháng 5/1954 ấy, chẳng biết tin từ đâu ra - Nếu thua trận Điện Biên Phủ, Pháp sẽ cho máy bay ném bom gấp nghìn lần xuống trại tập trung Noong Nhai để xóa sổ Điện Biên Phủ. Gia đình tôi trong đoàn người đang nhằm hướng biên giới Pa Thơm. Những ngày ăn đói mặc rét, sống trong nơm nớp khiến tất cả mệt mỏi lê bước. Đi lúc gà gáy ngoài Mường Thanh mà giữa trưa mới đến Noong Luống. Tất cả đang mệt quá, nằm vật ra cỏ thì có bộ đội đến. Bộ đội bảo về quê thôi không phải đi đâu hết. Bà tôi bảo sợ lắm, máy bay Pháp sắp ném bom nhiều, con vật, con người chết hết. Bộ đội giải thích rất lâu, rằng ta đã chiến thắng, toàn bộ quân tướng Đờ-Cát đã ra hàng. Không có chuyện Pháp lên Điện Biên Phủ nữa, đấy chỉ là tin đồn, ai đó sợ quá mà nghĩ ra thôi. Mọi người nhìn nhau, rồi quay về. Chỉ thương bao nhiêu người đã sang Lào rồi, không biết sẽ thế nào. Nhưng những người ấy, tận sang năm 1955, 1956 biết tin chiến thắng, đa số đều tìm đường về quê.

  

Sau giải phóng tháng 5/1954, Mường Thanh tan hoang không tưởng tượng nổi. Đất ruộng đất nương bị xới tung lên, đường hào, dây thép gai, bom mìn nhiều hơn cỏ. Trâu cày, gần như bị xóa sổ - Trước đó, tháng 1, 2, 3/ 1954, chiến sự ác liệt, Pháp bắn nhiều làm thức ăn, cả bản còn được vài con… Nhà cửa phần bị Pháp đốt phá, phần bị mưa nắng đổ nát, xiêu vẹo. Sau chiến thắng, dân bản từ các trại tập trung, từ rừng sâu, từ Lào… vui mừng trở về, bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Trong thời gian ngắn “Điện Biên mới”, đến cuối năm 1955, bản Pa Pe của tôi đã có 30 hộ (cuối 1953, đầu 1954 chỉ còn 6 hộ). Mọi người bắt tay xây dựng, dần dần đi lên.

 

Những tháng ngày hàn gắn vết thương chiến tranh ấy với biết bao công việc. Lúc bấy giờ đang thời gian vào vụ, phải khẩn trương làm đất, trồng cấy. Bộ đội và dân bản cùng nhau lấp hào, san ruộng. Trâu thiếu, người yếu nhưng vui, từ nay hết giặc mình được tự do làm trên đồng ruộng của mình. Trong vòng hơn một tháng, các nhà đều đã có ruộng cấy, tính sơ sơ cũng tạm đủ ăn. Nhưng đất hoang thì vẫn nhiều, mùa mưa đến nhìn mênh mông cỏ dại mà thấy tiếc. Dân bản không làm hết diện tích như xưa bởi thời gian ngắn không chạy kịp với trời mưa. Và bởi còn rất nhiều bom mìn, dây thép gai… bộ đội phải dần dần rà phá. Nói về bom mìn, hàng chục năm sau đó không bóng quân Pháp mà nhiều người vẫn bị tai nạn, chết thương thương tâm. Tôi nhớ, anh Lò Văn Minh cùng bản, buổi chiều hôm ấy đi đuổi trâu về rồi mới ăn cơm. Anh ngược lên khu trên hầm Đờ-Cát, thấy trâu, chạy ngược lên đón đầu thì… một tiếng nổ. Mọi người chạy lại, anh đã tắt thở, máu me đầy mặt. Hay như trường hợp cô Lò Thị Mướng, 18 tuổi, người Khơ Mú, cũng cùng bản đi lấy củi cơi ở chân cầu sắt (cầu Mường Thanh, sang hầm Đờ-Cát). Cô Mướng còn may, chỉ bị mảnh mìn cắt ngang chân. Tôi nhớ năm đó là năm 1959, cô Mướng bị thương vì hôm ấy họp dân công, chuẩn bị đi làm hồ Huổi Phạ. Khi điểm danh thấy không có tên Mướng. Một lúc thì nghe tin cô Mướng bị dính mìn. Cô Mướng về sau lấy chồng người miền xuôi, ra bản Nà Lơi (xã Thanh Minh) ở.  Còn nhiều người bị dính mìn, tai nạn thương tâm, bản nào, xã nào cũng có vì phải làm ăn ai mà ngồi nhà mãi được. Đến cả những con trâu to lớn dẵm phải mìn nhảy, không chết nhưng què chân… nằm chuồng mấy tháng đành phải mổ.

 

Sau mùa vụ, rồi nhà cửa ổn định, bộ đội và dân bản mới tiến hành qui tập hài cốt liệt sỹ về nghĩa trang. Đợt ấy, khoảng giữa năm 1957, tôi được vào đội qui tập mộ liệt sỹ. Hồi chiến sự ác liệt, bộ đội hi sinh nhiều, việc chôn cất cũng sơ sài, tùy theo từng trận đánh. Tôi nhớ lần làm khu mộ ở bản Noong Pết (Thanh Hưng)… Khi đào mấy mộ, tôi rất ngạc nhiên nhưng phải hết buổi sáng mới hỏi … Sao có huyệt có xác huyệt không? Liệu có nhầm lẫn gì chăng? Bộ đội nghe hỏi vậy, thì cúi mặt xuống, nấc lên từng tiếng đứt quãng: Anh ơi…! Những cái huyệt này cả đơn vị đào trước khi vào trận đánh đấy. Cứ đào sẵn để nếu còn sống thì mừng, nếu chết rồi thì đồng đội chôn mình được ngay. Và nhỡ đơn vị không ai về thì đồng đội khác cứ sẵn hố đấy mà chôn. Mắt tôi nhòe trong đau đớn, xót thương, cảm phục. Buổi chiều tôi đến một xác đồng chí, mở cái lọ lấy mảnh giấy xem… tên đã bị mờ, chức vụ Tiểu đoàn trưởng, hi sinh sáng 7/5/1954. Tiếc quá! Còn mấy tiếng nữa thì giải phóng rồi, sao chiến tranh ác thế. Tôi gục xuống anh, khóc thành tiếng, nước mắt cứ thế tuôn trào. Các anh từ mọi miền đất nước đã để lại xương máu vì mảnh đất này. Tôi thầm hứa sẽ làm hết sức mình cho quê hương.

 

Những năm tiếp sau đó, tôi lao vào công tác. Công việc chiếm nhiều thời gian, đòi hỏi bản thân phải biết cách vận động, kiên trì là xây dựng phong trào thanh toán nạn mù chữ, kết hợp với các cuộc vận động sản xuất ở địa phương. Lúc ấy dân Mường Thanh đa số mù chữ, số có học đếm trên đầu ngón tay, cả tỉnh có trình độ Ăng-phăng-tanh (tương đương tiểu học) khoảng hai chục người. Tôi biết ba thứ tiếng: Pháp-Việt-Thái, nên là thành viên cốt cán của phong trào xóa mù chữ. Tôi còn nhớ đầu năm 1956, chợ Mường Thanh làm hai cái cổng - cổng đi thẳng (cao) và cổng chui (thấp), trên cổng thẳng tôi viết hai chữ Thái “Tốc hạp” (nghĩa là vào chợ). Ai đọc được thì mời đi cổng thẳng, ai “bố hụ” (không biết) thì sang cổng chui. Cách phân loại chỗ đông người có tác dụng tốt. Buổi trưa, buổi tối trong bản lớp bình dân học vụ luôn ê a tiếng đánh vần. Bà Thâng (vợ tôi) dù con mọn vẫn chăm chỉ đi lớp xóa mù. Nhờ tấm gương vợ, tôi vận động được nhiều người, mọi người quyết tâm gắng chí. Từ biết ít chữ những hủ tục lạc hậu từng bước đẩy lùi, đặc biệt sản xuất phát triển.

 

Điện Biên Phủ - Mường Thanh bây giờ khác lắm ngày xưa, phát triển văn minh lên gấp nghìn lần thời đánh Pháp. Tôi giờ tuổi đã cao, mỗi khi nhớ lại một thời lịch sử Điện Biên Phủ lòng lại rưng rưng xúc động.

 DU AN, Hội Văn học Nghệ thuật Tỉnh Điện Biên

Ghi theo lời kể của ông Lò Văn É

bản Pa Pe, xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên 

 

 

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác