Những “cột mốc” chủ quyền trên thềm lục địa: Những người đầu tiên chốt giữ nhà giàn


Biển xa sóng gió, gian khổ khó khăn, biết có gì chờ đợi người lính lần đầu tiên ra nhà giàn. Vượt lên tất cả là tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc


Nhà giàn DK1, vùng 2 Hải quân trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc đã đứng vững vàng giữa ngàn khơi 22 năm kể từ ngày thành lập. Những người đầu tiên ra chốt giữ nhà giàn DK1, người còn sống, người vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Nhà giàn DK1 vẫn tồn tại như một bằng chứng lịch sử về sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của các thế hệ chiến sĩ Hải quân. Những câu chuyện về ngày đầu tiên gian khó ấy vẫn tươi mới, vẹn nguyên trong ký ức ông Nguyễn Văn Nam - một cựu binh đầu tiên của nhà giàn DK1.


Nước mắt thay lời chia ly

Qua 2 lần hẹn, tôi mới gặp được ông tại nhà riêng ở 1096 đường 30/4 phường 11 thành phố Vũng Tàu. Trước mặt tôi là người chỉ huy cương nghị, rắn rỏi đã có 20 năm lăn lộn với biển cả. Câu chuyện của tôi và ông bắt đầu bằng những kỷ niệm về những ngày đầu ra chốt giữ nhà giàn, nổi bật trong đó là tinh thần vượt lên gian khó và nghị lực sống kiên cường.

Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đầu tháng 7/1989, Đại úy Nguyễn Văn Nam dẫn đầu 13 cán bộ chiến sĩ ra chốt giữ nhà giàn Phúc Tần. Trước ngày đi 3 hôm, em trai mất do tai nạn, còn vợ anh đang ốm nặng. Lúc ấy, nói đến đi Trường Sa, DK1 là chuyện gì đó rất ghê gớm. Những người đi Trường Sa, DK1 xác định: “Ra đi chẳng hẹn ngày về”. Nguyễn Văn Nam cũng xác định, đi là sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Lần đầu tiên, Lữ đoàn 171 Hải quân đưa lực lượng đi làm nhiệm vụ trên biển xa nên cán bộ Lữ đoàn rất quan tâm, lo lắng. Trước ngày đi, Thủ trưởng đơn vị đến từng nhà động viên anh em yên tâm lên đường làm nhiệm vụ. Đối với cán bộ chiến sĩ sống tập thể tại đơn vị, khi chia tay, ai cũng nói hẹn ngày gặp lại, nhưng trong thâm tâm ai cũng nghĩ “biển xa sóng gió, gian khổ khó khăn, biết có gì chờ đợi người lính nơi đó…”.

 Những “cột mốc” chủ quyền trên thềm lục địa: Những người đầu tiên chốt giữ nhà giàn  - ảnh 1

Trung tá Nguyễn Văn Nam rửa rau mang ra từ đất liền cùng cán bộ chiến sĩ
nhà giàn Phúc Nguyên B. (Ảnh: Xuân Cường)

Mặc dù nhà đang có tang, vợ ốm nặng, nhưng Đại uý Nguyễn Văn Nam vẫn quyết tâm gạt nước mắt ra đi vì Tổ quốc đang cần anh và những đồng đội. Biết gia đình Nam gặp khó khăn, Trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 đã đến tận nhà động viên: “Đồng chí cứ chỉ huy anh em ra nhà giàn làm nhiệm vụ. Vợ con ở nhà yên tâm đã có đơn vị, chúng tôi lo”. Chị Thủy - vợ anh đang ốm nặng cũng cố tiễn chồng ra cửa, gạt hai hàng nước mắt dặn chồng: “Anh đi bình an, hoàn thành nhiệm vụ trở về với mẹ con em. Em và các con luôn chờ đón anh về”. Nhìn người vợ thân yêu và con gái nhỏ, Nam mím chặt môi để không bật ra tiếng nấc. Anh bế con gái đầu lòng hôn lên má và giấu giọt nước mắt trào ra.

Con tàu gỗ nhỏ bé có tên HQ727 qua 3 ngày, 3 đêm hành trình liên tục đã đưa 14 cán bộ chiến sĩ đến nhà giàn Phúc Tần. Ra đến nơi, anh viết thư về quê tận Vĩnh Phú dặn người em ruột: “Nếu anh hy sinh thì chú vào Vũng Tàu đưa vợ con anh về quê sinh sống”.

Khó khăn chồng chất

Giữa cái nắng cháy da, giữa tiếng gió gào thét suốt đêm ngày, 14 cán bộ chiến sĩ trằn mình trong nắng lửa huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, luyện tập các phương án tác chiến, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những trận bão cuồng phong. Những thứ ở đất liền rất bình thường như rau xanh và nước ngọt, thì ở nhà giàn cực kỳ hiếm hoi và quý giá. Nước ngọt cho sinh hoạt ở đây chỉ có thể mang ra từ đất liền hoặc hứng được khi trời mưa.

Nhà giàn Phúc Tần là thế hệ nhà giàn được đóng đầu tiên. Nhà thiết kế kiểu bong - tông đặt nổi trên đáy san hô, được chia làm ba tầng. Dưới tầng công tác là 3 ngăn đựng nước ngọt và dầu hỏa. Bồn chứa nước chỉ hơn 10 khối. Với ngần ấy nước cho 14 con người trong 6 tháng trời ròng rã, chỉ nội rửa tay thôi cũng không đủ, nói gì đến chuyện nấu ăn, tắm, rửa. Còn rau xanh thì chưa biết trồng thế nào. Thức ăn chính hằng ngày của cán bộ chiến sĩ vẫn là thịt hộp và rau muống phơi khô đóng thành bao tải do quân nhu gửi từ đất liền ra.

Do nhà có kết cấu dạng bong - tông đặt lên nền san hô cách mặt nước 7 mét, nên chỉ cần sóng cấp 4 hoặc dòng nước chảy mạnh là khối bong - tông đã dịch chuyển, bập bềnh trôi trong nước. Sau 3 ngày trấn giữ, sóng to đã đánh vỡ toàn bộ phần bong - tông, bồn nước ngọt và bồn dầu hỏa. Biết không trụ vững an toàn, lệnh cấp trên rút toàn bộ cán bộ chiến sĩ về đất liền.

Ngày trở về đất liền, chị Thủy bế con ra tận cầu cảng đón chồng. Bế con gái trên tay, Nam nghèn nghẹn. Ôm vợ trong lòng, anh bảo: “Chỉ về ít hôm, anh và đồng đội lại ra ngay. Ngoài ấy đang cần anh và đồng đội. Vùng biển đảo thân yêu phải được bảo vệ giữ gìn”.

Nam và các cán bộ, chiến sĩ lao vào huấn luyện, rèn luyện sức khỏe sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Một tháng huấn luyện qua mau, Đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán bộ chiến sĩ đem theo 20 phi nước ngọt và 5 phi dầu hỏa theo tàu ra nhà giàn Phúc Tần chốt giữ. Một kế hoạch sinh tồn cho cuộc sống mới bắt đầu. Trước hết là tiết kiệm thật chi li nước ngọt và trồng rau xanh. Nước ngọt được chia theo đầu người mỗi ngày 6 lít kể cả tắm rửa. Nước tắm, giặt xong dùng để tưới rau, miễn là không nhiễm xà bông và nước mặn. Anh em đã lấy gỗ tạp chế ra chiếc máng nhỏ để trồng rau trên ấy và phải “làm nhà” cho rau ở, gió hướng nào che hướng ấy. Do nhiễm mặn từ nước biển bốc hơi, nên rau xanh cứ nảy mầm là thối gốc hoặc lên được 2 lá là chết lụi.

Khó khăn thiếu thốn là thế, nhưng cán bộ chiến sĩ yên tâm công tác, thương yêu nhau như ruột thịt, chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, đọc chung nhau thư nhà gửi tới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

 Những “cột mốc” chủ quyền trên thềm lục địa: Những người đầu tiên chốt giữ nhà giàn  - ảnh 2

Nhà giàn Phúc Tần - nơi anh Nam và 13 cán bộ, chiến sĩ ra chốt giữ đầu tiên (Ảnh tư liệu)


Nước mắt của biển

Sau 11 tháng sống trên nhà giàn Phúc Tần, Đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán bộ chiến sĩ đầu tiên ra nhà giàn được về đất liền do kíp trực khác ra thay. Chia tay nhà giàn và những người ở lại, Nam căn dặn anh em: “Điều kiện sống ở đây vô cùng khó khăn gian khổ. Anh em phải thương yêu đùm bọc nhau, coi nhau như ruột thịt. Gian khổ thế nào cũng giữ vững ý chí chiến đấu, không sờn lòng, không chùn bước. Còn người là còn trạm”.


Chiếc xuồng nhỏ bé chở Nam và đồng đội của anh ra tàu HQ931 về đất liền. Ngồi trên xuồng, ngoảnh lại nhìn nhà giàn mà thương anh em quá. Nam và mọi người nhìn lên nhà giàn mà khóc. Khóc bởi thương anh em, khóc bởi giữa biển nước mênh mông, nhà giàn nhỏ bé như bị nuốt vào lòng biển, không thấy bến bờ. Trên đó là những người lính trẻ mười tám, đôi mươi, vô tư, hồn nhiên sẽ phải gồng mình chống chọi với khí hậu khắc nghiệt nơi đây. Những khó khăn đó có thể chịu đựng được, nhưng có những điều phải thầm lặng hy sinh gian khổ hơn, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ người thân luôn day dứt trong lòng. Nỗi nhớ này sẽ tăng dần theo thời gian. Nhiều người nhận được tin vợ ốm, con đau, cha già, mẹ héo đành cắn răng chịu đựng không về được.

Với 34 năm tuổi quân, 20 năm công tác ở DK1, đầu năm 2009, ông Nam được nghỉ hưu với cấp hàm Thượng tá. Trở về với cuộc sống đời thường, ông vẫn giữ vững phẩm chất của người lính Cụ Hồ; Cương nghị trong công việc, sâu nặng nghĩa tình với đồng đội và bà con lối xóm. Căn nhà ở khu tập thể A đoàn M71 lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Vợ ông - bà Đặng Thị Thủy đảm đang nội trợ giỏi. Con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh là giáo viên trường THCS Thắng Nhì thành phố Vũng Tàu, con trai thứ Nguyễn Văn Dũng hiện là sinh viên đại học Sài Gòn. Người con trai út được ông Nam đặt tên là Nguyễn Hải Dương để nhớ mãi về những ngày sống trên đại dương bão tố ở nhà giàn Phúc Tần. Ngày cuối tuần, con gái, con trai về thăm bố mẹ, cả nhà quây quần bên mâm cơm hạnh phúc.

Trở về đời thường, Thượng tá Nguyễn Văn Nam bắt tay vào công việc mới. Hiện ông làm thủ kho vật tư cho Tổng Công ty xăng dầu Thái Bình Dương (Vũng Tàu). Tuy bận rộn, nhưng ông luôn quan tâm đến sự trưởng thành của nhà giàn DK1. Ông bảo: “Những ngày đầu tiên ra sống trên nhà giàn Phúc Tần gian nan vất vả, nhưng đó là quãng thời gian hạnh phúc, tự hào nhất đời tôi. Bây giờ không được vẫy vùng trên biển nữa, nhưng những vật dụng gì, để chỗ nào, ở nhà giàn nào tôi đều nhớ rõ. Thế hệ hôm nay phải biết phát huy truyền thống của cha anh đi trước, bằng mọi giá phải giữ vững chủ quyền biển đảo, thềm lục địa Tổ quốc. Bởi đó là cột mốc chủ quyền mà bao thế hệ đã đổ mồ hôi công sức, sự hy sinh quên mình mới có được”./.


Mai Thắng/vovonline

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác