Sự hiện diện của văn học về ẩm thực
Trong suốt thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, các tác phẩm văn học ẩm thực xuất hiện không nhiều, điển hình có thể kể đến các tùy bút ẩm thực của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Băng Sơn. Mặc dù việc ăn uống dường như mâu thuẫn và đối chọi với văn chương, nghệ thuật, nhưng khi được đưa vào sách, nó luôn hấp dẫn người đọc, cũng bởi ẩm thực khi đó không chỉ đơn thuần là khoái khẩu mà còn là mã code của văn hóa, địa lý, tôn giáo, lịch sử, mỹ học và tính cách dân tộc.
John T. Edge, một nhà văn chuyên viết văn học ẩm thực người Mỹ đã bày tỏ quan điểm rằng “Ẩm thực là một phần của đời sống. Có thể nói nó là ngành công nghiệp lớn nhất của mỗi quốc gia. Ẩm thực, không như tính dục, cho phép chúng ta được nuông chiều bản năng của mình một cách thường xuyên nhất. Thực phẩm, nếu thừa quá, thiếu quá, hoặc ăn sai cách, sai thực phẩm cũng là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra bệnh tật và chết chóc.”
Một nhà văn chuyên viết ẩm thực nữa là Mark Kurlansky thì nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của ẩm thực: “Ẩm thực liên quan đến thổ nhưỡng, nông nghiệp, sinh thái, là mối quan hệ của con người với thiên nhiên, là cách xây dựng quốc gia, văn hóa, là bạn, là thù, là đồng minh, chiến tranh, tôn giáo. Nó cũng chính là hồi ức, truyền thống, và đôi khi liên quan đến cả tính dục nữa.”
Văn học ẩm thực lấy ẩm thực là đề tài, không phải thể loại, vì vậy người viết có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau như tản văn, tùy bút, hồi ký, du ký… Văn học ẩm thực cũng liên quan đến thi ca và tiểu thuyết hư cấu, như Marcel Proust đã làm trong Đi tìm thời gian đã mất với những trang viết lừng danh khi nhân vật chính nhớ lại hồi ức lúc nhấp những ngụm trà và ăn bánh mađơlen. Đại văn hào Charles Dickens cũng nhấn mạnh nhiều đến ẩm thực trong các trang văn của mình, như cuốn Giáng sinh yêu thương chẳng hạn.
Nhà văn Mỹ M.F.K.Fisher chuyên viết về ẩm thực cho rằng “Đối với tôi, con người có ba nhu cầu cơ bản: Ăn uống, An toàn và được Yêu thương. Ba điều này hòa quyện lấy nhau đến nỗi khó có thể phân tách được rằng có thứ này mà lại thiếu hai thứ còn lại.”
Nói theo nghĩa đen thì văn học ẩm thực mang đến nhiều hơn chỉ đơn thuần là những thông tin về đồ ăn thức uống, nó cung cấp cho người đọc những giá trị về thẩm mỹ tinh tế. Ở Mỹ, văn học ẩm thực chỉ mới bắt đầu phổ biến từ thập niên 90 và năm 2013 thì trường đại học South Florida St. Peterburg bắt đầu cấp bằng cho chuyên ngành văn học và nhiếp ảnh ẩm thực. Nhưng ở Việt Nam, nơi có truyền thống ẩm thực lâu đời với hơn 3000 món ăn rải rác khắp mọi miền thì ẩm thực là một phần quan trọng của văn hóa, và chính vì vậy các tùy bút ẩm thực đã xuất hiện đến gần một thế kỷ, để ngày hôm nay cũng đã có thêm những nhà văn nối tiếp vào dòng văn học độc đáo này.
Bìa cuốn Mùi của ký ức Ảnh: zing |
Mùi của ký ức qua giác quan Nguyễn Quang Thiều
Cuốn Mùi của ký ức bao gồm 18 tùy bút ẩm thực của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Như tên gọi của cuốn sách, 18 câu chuyện là tập hợp của những hồi ức da diết về làng Chùa và những món ăn làng. Tác giả chia sẻ: “Tôi viết cuốn sách này để tưởng nhớ ông bà, cha mẹ tôi và những người làng Chùa đã khuất. Suốt trong những năm tháng ấu thơ cho đến khi rời làng đi học xa, cũng như những đứa trẻ trong làng, tôi lớn lên trong hai thế giới: Thiên nhiên hoang dã và lề thói phong kiến. Vào những năm chiến tranh, hầu hết những người đàn ông lành lặn của làng đều đi vào mặt trận, bởi thế mà phần lớn những gì chúng tôi được học cho cuộc đời sau này là từ thiên nhiên hoang dã ấy và từ những người đàn bà như bà nội tôi, mẹ tôi, các cô, các dì, các chị và những người đàn bà trong làng. Họ dạy chúng tôi mọi thứ để sinh tồn như mò cua, bắt cá, cấy lúa, trồng rau, chăn gà chăn vịt, tự chăm sóc bản thân và cả cách tuốt chứng chấy và bắt chấy rận. Từ lúc lên năm, sáu tuổi, chúng tôi đã phải nấu ăn. Bởi thế, tất cả những món ăn của người làng Chùa tôi đều biết cách nấu như mổ lợn, mổ gà vịt, gói giò xào, nấu thịt đông, nấu canh cua canh cá, kho cá, nướng cá, làm tương, muối cà, đồ xôi, làm bánh... » Những hồi ức trong sách, vì thế đều gắn những món ăn với người mẹ, người cha, người bà, và cả những cư dân làng Chùa nay đã thành người thiên cổ.”
Mở đầu bằng “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc”, Nguyễn Quang Thiều dẫn độc giả ngược dòng ký ức trở về với những cánh đồng xứ Bắc khi rau khúc vào mùa. Hết mùa rau khúc, tác giả lại dẫn độc giả đến mùa hoa cải vàng với món canh cua trứ danh. Qua đó độc giả được trải nghiệm những món ăn quen thuộc nhưng cũng đầy lạ lẫm vì lâu rồi không còn được ăn nữa như trứng chưng tương, bánh đúc riêu cua, cá nướng, muối riềng, muối sườn, cơm nóng trộn mỡ lợn, gỏi cua, gỏi cá diếc…
Mùi của ký ức mở ra một không gian mênh mang hoang dã và đầm ấm, qua lời kể da diết và điềm tĩnh của người đàn ông đã đi quá nửa đời người, trong ấy là nỗi xót xa khi thiên nhiên bị tàn phá, khi con người ngày càng ưa chuộng những xã giao hiện đại mà mất dần tính kết nối giữa người với người, với thiên nhiên tinh khiết, và không thể không thôi hoài niệm về những ký ức yêu thương với những người phụ nữ đã góp phần kiến tạo nên con người và sự nghiệp của nhà văn. Đấy là người bà, người mẹ luôn hiện ra trong khói lam chiều mỗi khi nhà văn nhớ về những món ăn nơi thôn dã.
Nhà báo Nguyễn Thành Linh nhận xét về Nguyễn Quang Thiều: “Dẫu là một người con của Nam Bộ, nhưng khi đọc những trang viết của Nguyễn Quang Thiều về đặc sản ẩm thực chốn làng quê Bắc Bộ, tôi vẫn thấy có một cảm giác gần gũi thân thương đến lạ thường. Và trong những hình ảnh về kí ức tuổi thơ, không thể thiếu được những bữa cơm nhà với đầy dư vị của hương đồng gió nội mà không thể kiếm tìm được ở chốn nao nơi thành phố sau này.”
Những cánh cửa ẩm thực Di Li đã mở
Bộ đôi tùy bút ẩm thực Tôi đã ăn cả cánh đồng hoa và Nửa vòng Trái đất uống một ly trà lại mang phong cách khác hẳn văn phong ẩm thực của các thế hệ đi trước. Xuyên suốt 107 câu chuyện về ẩm thực, Di Li không sử dụng những câu từ hoa mỹ nhưng luôn bộc lộ khả năng tái hiện sinh động về ẩm thực bằng cả năm giác quan. Có thể coi đây là bộ đôi tùy bút ẩm thực đầu tiên viết về những món ăn vòng quanh thế giới và Việt Nam.
|
Với phong cách hiện đại và hài hước mà không kém phần yêu thương, da diết với những món ăn quê nhà, 53 câu chuyện trong Tôi đã ăn cả cánh đồng hoa là không gian đêm Noel trên thành phố cảng rực sáng ánh đèn với món bánh đa cua Bà Cụ trứ danh, nỗi khổ sở khi đi ăn phở Thành Nam, những món ăn kỳ quặc suốt nẻo miền Tây, những ngày lang thang quà vặt Sài Gòn sau cơn mưa mùa nhiệt đới, ký ức về cô hàng bánh cuốn vùng biên giới đã dẻo tay cuốn bánh suốt vài thập niên, và cả tình người đong đầy trong những món ăn xưa cũ nơi phố Hội. Trong đó, ẩm thực Hà Nội chiếm một vị trí trân trọng nhất, bởi khi ấy ẩm thực không chỉ là ẩm thực mà còn đong đầy hồi ức tuyệt đẹp về nơi tác giả đã sinh ra và lớn lên.
Cũng chính vì thế, mùi thơm quyến rũ của món phở đã được tác giả gọi là “Mùi xứ sở”. Các món quen thuộc như bún chả, bánh mì, quẩy nóng, mì vằn thắn, chè bà cốt… hiện lên qua các góc phố, hàng cây quyến rũ của bốn mùa Hà Nội.
Nửa vòng Trái đất uống một ly trà là một kỳ công khác của tác giả khi trên đường thiên lý qua hàng trăm thành phố khắp các lục địa Âu, Á, Phi, nhà văn đã lưu giữ lại qua vị giác những thước phim tư liệu sống động về các vùng văn hóa thông qua ẩm thực. Để kết thúc cuốn sách và hoàn thiện seri trà của 8 vùng văn hóa, Di Li đã cất công lên tận Tây Tạng chỉ để trải nghiệm và viết về món trà bơ. Qua cuốn sách này, dường như Di Li đã rất tâm huyết với thể loại du ký ẩm thực của mình.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “Đọc hai cuốn sách của Di Li tôi nhớ đến câu nói của một nhà văn nước ngoài: Mang tên con người thì dễ. Làm một con người thì khó. Đừng hỏi người đã bước đi nhiều. Hãy hỏi người đã nhìn thấy nhiều”. Lắm người khoe đã đi nhiều nơi, nhiều nước, nhưng rút lại chẳng nhìn thấy gì. Di Li thì khác. Cô đã đi nhiều, đã nhìn thấy nhiều, và đã trải nghiệm cái thấy, và viết cái thấy trải nghiệm ấy thành văn. Và như thế, Di Li ở hai cuốn sách này, là một người nữ viết về ẩm thực (phá định kiến chỉ nam giới mới biết ăn uống và viết về nó), là một người nữ viết về ẩm thực trong văn hoá (phá thông lệ viết về ẩm thực là chỉ chuyện ăn uống), là một người nữ viết về ẩm thực trong văn hoá có văn chương (phá thói quen viết ẩm thực như sách dạy món ăn). Đọc hai sách này của Di Li là đọc ba trong một ấy. Và là một con người theo như câu nói trên.
Trong một mối liên quan mật thiết, trong cả háng 11/2019, tại tầng lửng của trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội cũng trưng bày hơn 20 tranh minh họa trong ba cuốn sách ẩm thực do họa sỹ Dũng Choai và Lê Thiết Cương thể hiện.
Họa sỹ Lê Thiết Cương là một người bạn thân thiết của nhà văn Nguyễn Quang Thiều, mà trong tác phẩm Mùi của ký ức, hình ảnh Lê Thiết Cương cũng thấp thoáng trong những dòng văn của tác giả. 12 tác phẩm minh họa đã được anh thực hiện bằng mực Nho trên chất liệu giấy dó.
Họa sỹ Dũng Choai chuyên vẽ tranh biếm họa và là người đã thực hiện 107 minh họa hài hước cho bộ đôi tùy bút ẩm thực của nhà văn Di Li. Anh đã cộng tác cùng Di Li trong rất nhiều dự án sách của chị.