Hành vi của Trung Quốc trên biển Đông nhìn từ những quy định của Luật pháp quốc tế

(VOV5)- Trung Quốc đã vi phạm cả tinh thần lẫn nội dung của UNCLOS 1982 và DOC.

Những ngày này việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Dư luận trên thế giới đều cho rằng hành động của Trung Quốc không nằm ở phạm vi hẹp là những tranh chấp đơn thuần giữa các quốc gia mà hành vi này của Trung Quốc đã vi phạm Luật pháp quốc tế, cụ thể là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) mà Trung Quốc là quốc gia thành viên đã ký kết.

Hành vi của Trung Quốc trên biển Đông nhìn từ những quy định của Luật pháp quốc tế - ảnh 1
Vị trí đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép của Trung Quốc tại Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Ảnh: Thư viện pháp luật)


Chiếu theo quy định của quốc tế, cụ thể là Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, có thể xem xét hành vi vi phạm chủ quyền của một quốc gia theo những khía cạnh sau:

Công ước Luật Biển năm 1982 và yêu sách Đường 9 đoạn phi lý tại Biển Đông

Năm 1982, Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước Luật Biển với 320 điều và 9 phụ lục. Công ước Luật Biển năm 1982 được coi là hiến pháp của thế giới về các vấn đề biển và đại dương bởi vì đã xác định một cách toàn diện quy chế pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia ven biển cũng như quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy biển quốc tế.

Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 mở ra cho các quốc gia ký vào ngày 10/12/1982. Cũng ngay trong ngày đó, Fiji trở thành thành viên đầu tiên của Công ước. Tính đến nay, Công ước đã được hơn 160 quốc gia trên thế giới ký và phê chuẩn. Trong số các nước ven Biển Đông đã có 8 nước tham gia ký Công ước là Việt Nam, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei, Thái Lan và cả Trung Quốc.

Theo Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển là nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Trong đó thềm lục địa là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển với chiều rộng vùng đặc quyền kinh tế là vùng nước rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở. 

Theo pháp luật quốc tế, khi tham gia Công ước Luật Biển năm 1982, các quốc gia ven biển phải chấp nhận sự ràng buộc của Công ước một cách toàn diện. Các quốc gia thành viên được hưởng các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình. Đồng thời, họ có nghĩa vụ tôn trọng các quyền chủ quyền của các quốc gia thành viên khác đối với thềm lục địa của họ.

Tại Biển Đông, Trung Quốc đã đưa ra yêu sách về Đường 9 đoạn và đòi hỏi chủ quyền bao trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông mà không có căn cứ pháp lý nào. Theo đó, Đường 9 đoạn này ăn sâu vào thềm lục địa 200 hải lý của các quốc gia ven Biển Đông như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei theo quy định của Công ước Luật Biển Liên Hợp Quốc năm 1982.

Năm 2012, bãi cạn Scarborough- một bãi đá nằm cách bờ biển Philippines tầm 124 hải lý và hoàn toàn thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của nước này-đã trở thành mục tiêu tranh chấp căng thẳng và kéo dài giữa Trung Quốc và Philippines. Bãi cạn Scarborough nằm trong vùng biển mà Đường 9 đoạn đã vẽ.

Cũng trong năm 2012, Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc công bố mời thầu quốc tế với 9 lô dầu khí chiếm diện tích tới 160.129 km2, thuộc vùng biển của Đường 9 đoạn vẽ ra nhưng nằm sâu trong thềm lục địa của Việt Nam. 

Đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc mang giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam tại tọa độ 15 độ 29’58’’ vĩ bắc, 111 độ 12’06’’ kinh đông, cách bờ biển Việt Nam 119 hải lý, tức nằm sâu trong thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý, nằm trong Đường 9 đoạn do Trung Quốc vẽ ra.

Hành động đòi chủ quyền của Trung Quốc hoàn toàn trái với Luật pháp quốc tế

Biển Đông là một trong những vùng biển có tính chất phức tạp bậc nhất thế giới bởi tại vùng biển này hiện đang tồn tại các tranh chấp chủ quyền. Trung Quốc là quốc gia đưa ra yêu sách phi lý với việc tuyên bố chủ quyền 80% diện tích của biển Đông bằng cái gọi là “Đường lưỡi bò” là trái với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Sự việc này đã khiến Biển Đông không ít lần dậy sóng.

Việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của dư luận quốc tế bởi đây không chỉ là vấn đề riêng của khu vực mà nó đã trở thành vấn đề toàn cầu vì hành động của Trung Quốc đã vi phạm những quy định của luật pháp quốc tế.

Sau cuộc họp báo quốc tế hôm 7/5 của Việt Nam, rất đông các phóng viên trong nước và quốc tế có mặt đã được chứng kiến sự thật những gì đang diễn ra tại vùng biển thềm lục địa Việt Nam với những thông tin xác thực bằng hình ảnh. Sau đó, thông tin về hành động trái phép của Trung Quốc đã đồng loạt được truyền thông thế giới đăng tải.

Báo chí Mỹ, Đức, Nhật Bản, Ấn Độ... đã có nhiều bài viết về việc Trung Quốc vi phạm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Về phần mình, Trung Quốc họp báo ngày 8/5, tiếp tục diễn giải sự việc và trình bày quan điểm với những yêu sách phi lý khiến các phóng viên của các hãng tin quốc tế như AP, AFP, các phóng viên Nhật Bản... đều tỏ ra hoài nghi về những nội dung mà phía Trung Quốc công bố, bởi phía Trung Quốc đã không đưa ra được những bằng chứng thực tế hay luận chứng có tính thuyết phục.

Các chuyên gia và học giả quốc tế cũng cho rằng, không một quy định nào cho phép Trung Quốc xác định chủ quyền của họ như Đường 9 đoạn đó. Giáo sư Carl Thayer - một chuyên gia về an ninh trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc cho biết, hành động của Trung Quốc là bất hợp pháp: "Trung Quốc đưa giàn khoan đến Biển Đông là một sự vi phạm chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Việt Nam có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên trong khu vực đó và giàn khoan dầu của Trung Quốc không được phép đưa vào đây để khai thác mà không có sự cho phép của Việt Nam. Điều này vi phạm luật pháp quốc tế”.

Cùng chung quan điểm này, Tướng Daniel Schaeffer - nguyên Tùy viên quân sự Đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan, nay là chuyên gia về Trung Quốc tại Trung tâm nghiên cứu châu Á 21 của Pháp, cho rằng: Ngược về quá khứ, “Đường lưỡi bò” được phía Trung Quốc đưa ra từ năm 1947, nhưng ở thời điểm đó, đây chỉ là một đường vẽ mà không đi kèm với bất kỳ yêu sách hay đòi hỏi chính thức nào từ phía Trung Quốc.

Phải đến tận ngày 9/5/2009, Trung Quốc mới đưa ra yêu sách chủ quyền đầu tiên với việc nước này đệ trình một biên bản lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc để phản đối việc Việt Nam và Malaysia phối hợp trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc về việc phân chia khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến hai nước. Lúc đó, phía Trung Quốc cho rằng sự việc này là "đáng lo ngại" đối với quyền của họ.

Chỉ cho tới lúc đó, phía Trung Quốc mới chính thức đưa ra đòi hỏi chủ quyền và cho rằng khu vực Biển Đông nằm trong "Đường lưỡi bò" là thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Như vậy, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc có sau Công ước về Luật Biển 1982. Do đó, mọi hành động nhằm khẳng định chủ quyền về "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc đều là bất hợp pháp và phi lý.

Ông Grigory Polling, chuyên gia thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế của Mỹ, tổ chức nghiên cứu số 1 thế giới về an ninh và các vấn đề quốc tế cho rằng: “Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 quy định rõ rằng trong trường hợp có tranh chấp thì các bên kiềm chế không tiến hành các hành động khiêu khích và đơn phương. Năm 2002, Trung Quốc cũng đã ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) với ASEAN, trong đó các bên cam kết không tiến hành các hành động khiêu khích và đơn phương. Do vậy, hành động của Trung Quốc đã vi phạm cả tinh thần lẫn nội dung của 2 thỏa thuận trên”.

Luật pháp quốc tế cần được tôn trọng một cách nghiêm chỉnh

Với việc tự ý vẽ ra Đường 9 đoạn phi lý, gần đây Trung Quốc đã tiến hành các hành động đơn phương để hiện thực hóa yêu sách này. Do đó, sự việc giàn khoan HD-981 của Trung Quốc xâm phạm vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam một lần nữa cho thấy những quy định của Luật pháp quốc tế mà cụ thể là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 đã không được Trung Quốc tôn trọng. Điều này có thể trở thành tiền lệ xấu ảnh hưởng đến Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982.

Trong khi đa số các quốc gia trên thế giới đều tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 thì Trung Quốc lại đi ngược lại. Ít có tranh chấp chủ quyền biển đảo nào trên thế giới có độ phức tạp như tại biển Đông cũng vì những yêu sách của Trung Quốc tạo ra. Trong thời gian gần đây, Trung Quốc liên tục có “va chạm” với các nước ven biển Đông chính là vì những đòi hỏi phi lý này của Trung Quốc. Là một thành viên Liên Hợp Quốc, lại là quốc gia đã tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Trung Quốc có nghĩa vụ phải tôn trọng Công ước đó.

Nếu áp dụng đúng các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì tại Biển Đông, từ khu vực giữa và nam Biển Đông, vùng biển đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia hầu như không bị chồng lấn lên nhau, thậm chí giữa vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam và vùng biển đặc quyền kinh tế của Philippines vẫn được ngăn cách bởi vùng biển Quốc tế hẹp nằm giữa biển Đông. Do đó việc tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc dựa trên Đường 9 đoạn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông là vô cùng phi lý và không một quốc gia nào trong khu vực có thể chấp nhận yêu sách này. Thậm chí trên thế giới cũng chưa từng có tiền lệ đòi hỏi chủ quyền như vậy.

Với việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không những Trung Quốc xâm phạm vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam đã được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 thừa nhận, hành động hung hăng chủ động đâm vào tàu chấp pháp Việt Nam của tàu Trung Quốc cũng là hành vi vi phạm quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Bên cạnh đó, các quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo an toàn hàng hải trên biển, tàu Trung Quốc chủ động đâm vào tàu nước khác khi những tàu này hoàn toàn không phải tàu chiến cho thấy Trung Quốc đã không tôn trọng nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ của Tổ chức Hàng hải quốc tế mà nước này cũng là một thành viên. Hay nói một cách khác, Trung Quốc đã vi phạm quy định an toàn hàng hải về tránh va đập trên biển. Không những thế, hành động lần này của Trung Quốc còn đi ngược lại Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002. Trong Tuyên bố đó, ASEAN và Trung Quốc đã cam kết không làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông và không sử dụng vũ lực.

Luật pháp quốc tế là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Luật Biển cũng vậy. Những hành động đơn phương của bất cứ quốc gia nào vi phạm vào các quy định và thông lệ quốc tế sẽ ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và an toàn hàng hải tại các vùng biển. Nghiêm trọng hơn, đây còn là tiền lệ xấu đối với sự uy nghiêm cũng như tính ràng buộc của Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 mà các quốc gia ký kết có nghĩa vụ phải tuân thủ.

Công ước được thông qua là một thành công lớn của thế giới, đồng thời đây cũng là chuẩn mực về Luật Biển áp dụng cho sân chơi chung toàn cầu. Do đó, tuân thủ Công ước Luật Biển năm 1982 là phải thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định trong Công ước này. Bất cứ hành động đơn phương nào vi phạm vào Công ước Luật Biển 1982 cũng khiến tình hình thêm phức tạp, đồng thời quốc gia nào không tôn trọng quy định về quyền và nghĩa vụ ghi trong Công ước cũng có nghĩa là tự tách mình ra khỏi sân chơi chung của cộng đồng quốc tế.

Vấn đề tại Biển Đông hiện nay không còn là vấn đề song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc, mà nó đã trở thành vấn đề của cả khu vực, thậm chí có ảnh hưởng đến toàn thế giới bởi luật pháp quốc tế đang bị vi phạm. Các quốc gia, các tổ chức chính trị xã hội trên thế giới cần tỏ rõ lập trường phản đối trước hành động thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế của Trung Quốc, lên tiếng yêu cầu Trung Quốc tuân thủ nghiêm ngặt những quy định được nêu rõ trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982./.

Phản hồi

Các tin/bài khác