(VOV5) -Vì có chung mục tiêu nên chúng tôi đã nhận sự ủng hộ rất lớn từ chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác.
Tiếp nối thành công của Sáng kiến Bình đẳng giới và Giáo dục trẻ em gái của Việt Nam, UNESCO tiếp tục phối hợp với cơ quan chức năng liên quan của Việt Nam khởi động sáng kiến mới mang tên We are able, qua đó giúp trẻ em và phụ nữ dân tộc thiểu số có mức sống và giáo dục tốt hơn. Kéo dài 3 năm, dự án sẽ thu hút sự tham gia của 16 nghìn người trong cộng đồng dân tộc thiểu số ở 3 tỉnh Hà Giang, Ninh Thuận và Sóc Trăng. Phóng viên Đài TNVN phỏng vấn ông Micheal Croft, đại diện của UNESCO tại Việt Nam về dự án vì lợi ích cộng đồng này :
Nghe âm thanh phỏng vấn tại đây:
PV: Thưa ông, xin ông cho biết về dự án mới mà UNESCO vừa khởi động, có tên We are able- Chúng ta có thể?
Ông Micheal Croft: Chiến lược quốc gia mới của UNESCO được gọi là "Hướng tới mức sống và giáo dục tốt hơn" được phát triển quy mô và tương thích từ năm 2017. UNESSCO tập trung vào ưu tiên phát triển những lĩnh vực mấu chốt nhằm hỗ trợ chính phủ Việt Nam trong việc thực thi chương trình nghị sự đến năm 2030 của Liên hợp quốc. Tập chung thực hiện những ưu tiên của ưu tiên. We are able là tên một sáng kiến, ở đó, chúng tôi muốn bày tỏ cam kết của mình trong vấn đề về bình đẳng giới, sự phát triển toàn diện của trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng và thanh thiếu niên nói chung.
Ông Micheal Croft, trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam - Ảnh Hà Linh |
Tháng 6 năm ngoái, một đối tác của chúng tôi là tập đoàn CJ, Hàn Quốc rất quan tâm vấn đề này và bày tỏ mong muốn được hợp tác cùng UNESCO và chính phủ Việt Nam. Chúng tôi cùng hiểu rằng, để làm được điều đó, cần phải quan tâm đặc biệt những đối tượng dễ bị tổn thương nhất ở Việt Nam. Đó là phụ nữ, trẻ em ở dân tộc thiểu số chưa có điều kiện tiếp cận đầy việc học hành. Tham vấn với Bộ Giáo dục Đào tạo, làm việc với Ủy ban dân tộc Việt Nam, UNESCO đã xây dựng một đề xuất dự án. Sau khi tiến hành các đợt khảo sát cuối năm ngoái, chúng tôi đã xác định 3 tỉnh Hà Giang, Sóc Trăng, Ninh Thuận là nơi thực hành thí điểm cùng với các đối tác.
PV: Như vậy, dự án mới này sẽ tập trung vào những lĩnh vực nào thưa ông?
Ông Micheal Croft: Về cơ bản có 3 lĩnh vực trọng tâm. Thứ nhất là tìm hiểu về vấn đề thúc đẩy cách tiếp cận đối với cộng đồng. Chúng tôi sẽ đặt phụ nữ, trẻ em gái vùng thiểu số làm trọng tâm qua đó để kể câu chuyện của họ về học vấn, việc làm. Vì sao các bạn ấy muốn đến trường và vì sao việc học lại quan trọng với các bạn ấy, với bạn bè, với cha mẹ cũng như với chính quyền địa phương. Khía cạnh thứ 2 của dự án là tập trung vào vấn đề an toàn học đường, làm sao để không còn chuyện bắt nạt, bạo lực, xâm hại tình dục…vốn đang là vấn đề đau đầu hiện nay ở Việt Nam.
Chúng tôi muốn trao thêm quyền năng cho các em, cho cả giáo viên để tạo nên một môi trường học đường an toàn, lành mạnh trên cơ sở bình đẳng giới. Ưu tiên thứ 3 là tăng cường cơ hội có việc làm cho trẻ em gái và phụ nữ trẻ vùng dân tộc thiểu số thông qua chương trình định hướng nghề nghiệp. Tùy từng hoành cảnh của mỗi địa phương để giúp các em tìm việc làm phù hợp rồi đào tạo, hướng dẫn nhằm đáp ứng nhu cầu công việc đó.
Từ trái qua phải: ông Michael Croft, Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam, Bà Heekyung Jo Min đại diện nhà tài trợ CJ, ông Trần Kim Tự, Phó Cục trưởng Cục nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (Bộ GD&ĐT)- Ảnh Hà Linh |
PV: So với dự án “Bình đẳng giới và Giáo dục cho trẻ em gái tại Việt Nam” mà UNESCO làm khá thành công trước đó thì We’re able có sự khác biệt không thưa ông?
Ông Micheal Croft: Chúng tôi muốn sử dụng sáng kiến này như một cơ hội để làm phá bỏ những định kiến, hủ tục ở các dân tộc thiểu số. Bằng cách cho các em được nói, chúng tôi muốn họ kể chúng tôi nghe câu chuyện về sở thích như nghe nhạc Kpop, về ước mơ trở thành kỹ sư, hay sự sợ hãi về biến đổi khí hậu. Vì thế, chúng tôi muốn sử dụng dip này để giúp các bạn nói lên tiếng nói của mình, cùng với những trẻ em đồng lứa khác trên khắp đất nước. Chúng tôi cũng rất muốn biết xem đằng sau những bộ quần áo sặc sỡ, những điệu múa xòe là những câu chuyện về sự khó khăn, khả năng, danh dự, trách nhiệm, tình yêu dành cho cộng đồng của các em. Điều đó một phần sẽ giúp cộng đồng dân tộc thiểu số tạo nên giá trị cho quốc gia. We are able hướng đến khai mở những tiềm năng đó.
PV: Qua khảo sát ở các địa phương, theo ông thì trẻ em dân tộc thiểu số đang phải đôi mặt với những khó khăn gì. Từng công tác ở nhiều quốc gia, ông có thể chia sẻ kinh nghiệm UNESCO giúp các nước cải thiện vấn đề giống Việt Nam?
Ông Micheal Croft: Khi thực hiện khảo sát ví dụ ở Hà Giang, chúng tôi quan sát thấy có những thách thức trong học hành của trẻ em nơi đây. Mặc dù các gia đình đã đồng ý cho con đến trường nhưng việc các em tiếp cận với giáo dục vẫn chưa tốt. Khoảng cách đi bộ đến trường xa trong thời hoàn cảnh thời tiết khó khăn là một vấn đề. Vì thế, dù đã có những trường lưu trú cho các em nhưng chúng tôi muốn tăng thêm nữa cho các em vùng khó khăn cơ hội tiếp cận giáo dục. Một vấn đề nữa là hiện có tình trạng nhiều em phải bỏ học để kiếm sống hoặc lấy chồng rất sớm.
Một tiết mục biểu diễn tại Lễ công bố dự án We are able |
Nói về kinh nghiệm, thực tế mỗi nước có bối cảnh và nền giáo dục khác nhau. Ở những nơi tôi từng làm việc thì việc tiếp cận giáo dục cũng bị giới hạn nhưng lý do không giống Việt Nam. Chẳng hạn tại quốc gia xảy ra chiến sự, hỗ trợ của UNESCO là cố gắng tổ chức các lớp học từ xa, tiếp cận giáo dục qua internet, qua radio, truyền hình. Hiện tại trong khuôn khổ dự án, chúng tôi chưa bàn đến nhưng về sau này cũng cần phải nghĩ đến mô hình mobile learning như vậy. Vì hiện nay gia đình Việt Nam nào cũng có điện thoại.
Đại diện các bên tham gia We are able- dự án giúp trẻ em và phụ nữ dân tộc thiểu số có mức sống và giáo dục tốt hơn.- Ảnh Hà Linh |
Thực tế là mỗi địa phương đều có khó khăn riêng, nhưng trong khuôn khổ dự án,UNESCO có phương thức tiếp cận toàn diện để làm sao thể hiện được rằng trong khuôn khổ ước mơ của mình. Điều đáng mừng là những ưu tiên của chính phủ Việt Nam như bình đẳng giới, trẻ em, đói nghèo, giáo dục…cũng là trọng tâm mà Liên hợp quốc hướng đến với mong muốn hỗ trợ cộng đồng, đặc biệt là nhóm yếu thế. Vì có chung mục tiêu nên chúng tôi đã nhận sự ủng hộ rất lớn từ chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác. Hi vọng đây là tiền đề để tạo nên sự thành công cho dự án.
PV: Vâng xin trân trọng cảm ơn ông và chúc dự án “Chúng ta có thể” sẽ thành công.