Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu - EU (EVFTA) đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/08/2020. EVFTA là hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, tiêu chuẩn cao và toàn diện nhất mà EU (với 27 nền kinh tế phát triển) đã ký kết với một nước đang phát triển là Việt Nam.
Mặc dù chịu tác động không nhỏ bởi đại dịch Covid-19, cuộc xung đột quân sự Nga - Ucraina và những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, song các kết quả Việt Nam đạt được (ở cả 3 chiều cạnh lớn, là: cải cách thể chế, thương mại xuất nhập khẩu và đầu tư) sau 4 năm thực thi EVFTA là rất đáng ghi nhận.
Là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu sau 4 năm Hiệp định EVFTA có hiệu lực ước tính khoảng 200 tỷ USD, tăng trưởng xuất khẩu đạt từ 12-15% và là nước xuất siêu vào EU. Trong bối cảnh Việt Nam đang tăng cường làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, trong đó có thương mại và đầu tư, việc thu hút nguồn vốn đầu tư chất lượng cao từ EU để kết nối, tạo chuỗi cung ứng hàng hoá bền vững hơn là vấn đề đặt ra. PV Nguyên Long PV ông Lương Hoàng Thái - Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) về nội dung này:
Nghe âm thanh phỏng vấn tại đây:
PV. Thưa ông, dưới góc độ đơn vị trực tiếp tham gia đàm phán, ông nhìn nhận như thế nào về việc thực hiện các cam kết trong EVFTA của Việt Nam và EU cũng như các kết quả đạt được sau 4 năm thực thi hiệp định này?
Ông Lương Hoàng Thái: Trong số những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia thì có thể nói là Hiệp định EVFTA là Hiệp định đem lại kết quả tích cực nhất.
Một trong những điểm sáng được đánh giá cao chính là quá trình Việt Nam đã chủ động cải cách thể chế để có thể tạo được môi trường kinh doanh mang tính minh bạch, thuận lợi hơn, và từ đó có thể thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư từ các nước EU. Chính vì vậy mà một trong những điểm quan trọng thứ hai mà chúng ta hy vọng thông qua việc thiết lập Hiệp định thương mại tự do tiêu chuẩn cao là chúng ta tạo được một kết nối về chuỗi cung ứng, và chuỗi cung ứng này chỉ có thể được hình thành nếu như có sự đầu tư mạnh mẽ từ EU vào Việt Nam.
Cho đến nay EU đã đầu tư vào Việt Nam 28 tỷ Euro và đứng thứ 6 trong số các nhà đầu tư. Tất nhiên là cùng với Hiệp định thương mại tự do thì chúng ta cũng đã ký Hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA). Thế nhưng Hiệp định này thì còn đang chờ phía EU - một số nước thành viên phê chuẩn nốt thì mới có thể đưa vào thực thi, nên chúng ta cũng hy vọng là các nước EU phê chuẩn hiệp định này, thì nó sẽ thành một động lực và nó sẽ đem lại lợi ích lớn hơn nữa.
Ông Lương Hoàng Thái - Vụ trưởng Vụ chính sách thương mại đa biên,
Bộ Công Thương |
Thứ ba, đó chính là tăng trưởng về thương mại giữa Việt Nam và EU. EU luôn là thị trường quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Chúng ta xuất khẩu sang EU luôn chiếm khoảng 12-15% tổng xuất khẩu của Việt Nam. Thế nhưng mà quan trọng hơn thì đây là một thị trường với quy mô dung lượng rất lớn, và với tiềm lực về khoa học công nghệ cũng như tiềm lực về quản lý rất lớn để chúng ta nếu như mà có khả năng thành công ở thị trường này thì cũng có khả năng đi vào những thị trường khó tính khác.
Và trong giai đoạn 4 năm đầu thực thi Hiệp định thì chúng ta cũng đã có mức tăng trưởng trên 10% tăng trưởng xuất khẩu.
Bên cạnh những khía cạnh tích cực đã đạt được thì chúng ta cũng cần nhìn nhận là trong bối cảnh vừa qua thì thế giới có nhiều những diễn biến mà nó không hoàn toàn thuận lợi đối với quá trình thực thi Hiệp định. Đặc biệt là vào năm 2020 - khi mà những tác động của đại dịch covid-19 nó làm ảnh hưởng đến tổng cầu cũng như là làm đứt gãy chuỗi cung ứng. Hoặc là giai đoạn gần đây, khi mà những tác động của xung đột vũ trang của một số nước ở khu vực châu Âu thì cũng đã có những tác động nhất định đến thương mại giữa các nước, mà đặc biệt là thương mại giữa EU với các nước, thì nó làm cho thương mại của Việt Nam nói riêng cũng như của các nước nói chung với EU suy giảm trong 2 năm này.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể bức tranh xuất khẩu của chúng ta trong giai đoạn 4 năm vừa qua đạt được khoảng 200 tỷ USD, trong đó chủ yếu là chúng ta xuất siêu sang EU. Và đặc biệt là điểm sáng là những mặt hàng xuất khẩu nông sản của chúng ta cũng như một số mặt hàng chúng ta có thế mạnh đã có những bước tăng trưởng rất mạnh vào thị trường EU để tạo đà có chỗ đứng và mang tính ổn định, lâu dài, và từ đó thì có thể xuất khẩu sang nhiều thị trường khó tính khác trên thế giới.
Tất nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được thì chúng ta thấy cũng còn có nhiều điểm mà chúng ta cần phải phấn đấu hơn nữa. Thứ nhất là tỷ lệ xuất khẩu của chúng ta vẫn còn thấp, mới chỉ trên 2% quy mô dung lượng thị trường của EU thôi, chúng ta cần phải đẩy mạnh khai thác hơn nữa.
Về tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ Hiệp định thì cho đến nay chúng ta mới đạt được khoảng trên 20%. Con số này là khá cao so với những hiệp định chúng ta mới đưa vào thực thi, nhưng mà nó chưa đạt được như kỳ vọng ban đầu của chúng ta, và đây là điểm chúng ta cần phải tập trung để có thể thúc đẩy trong thời gian tới, để làm sao giúp được doanh nghiệp của chúng ta tận dụng tốt hơn những ưu đãi của Hiệp định.
PV. Thưa ông, bước sang năm thứ 5 thực thi, cùng với các cam kết ngày càng khắt khe hơn thì rất nhiều các đạo luật khác liên quan đến tiêu chuẩn xanh được EU ban hành cho từng loại sản phẩm, ngành hàng và sẽ áp dụng ngay trong thời gian tới đây. Theo ông, cần thêm những bước đi cụ thể nào/cơ chế hỗ trợ cụ thể nào từ các cơ quan chức năng nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu này?
Ông Lương Hoàng Thái: Ở EU nói riêng cũng như một số nước phát triển nói chung hiện nay đang có xu hướng chuyển đổi rất mạnh với những quy định mang tính chất ngày càng ngặt nghèo liên quan đến chống biến đổi khí hậu, đến chuyển đổi xanh, chống chặt phá rừng và những quy định tương tự.
EU là nơi đi đầu trong thực thi những quy định này. Ví dụ như họ đã bắt đầu thực hiện những quy định về thuế điều chỉnh các bon tại biên giới, hay là có những quy định ngặt nghèo đối với những sản phẩm xuất khẩu sang EU nếu như trong quá khứ những sản phẩm đó được trồng trên đất mà bị chặt rừng thì người ta cũng quản lý rất chặt đối tượng này. Hay là những quy định về xuất khẩu thủy sản, người ta cũng có những quy định về chống đánh bắt bất hợp pháp và không khai báo,…
Thế thì nó có hai mặt, một mặt thì nó là rào cản, nhưng mặt khác, nếu như chúng ta đáp ứng được tiêu chuẩn này thì nó cũng là cơ hội để chúng ta vươn lên có lợi thế cạnh tranh so với những đối thủ cạnh tranh khác của chúng ta chưa đáp ứng quy định này. Chính vì vậy mà Chính phủ cũng đã có một chương trình hành động rất chi tiết để giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành liên quan. Ví dụ như là đối với thuế điều chỉnh các bon tại biên giới thì Chính phủ đã giao Bộ Công Thương có một đề án và chúng tôi cũng đang xây dựng đề án này, và sẽ có sự phối hợp với các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như tham gia lấy ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp để làm sao chúng ta có những chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, và cũng đáp ứng được tiêu chuẩn cao mà đặt ra.
Và hơn hết thì Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam - EU với những quy định sẵn có của nó về chống biến đổi khí hậu, về môi trường, và cơ chế hợp tác đã hình thành giữa Việt Nam và EU cũng là cơ chế rất tốt để hai bên có thể cùng trao đổi, cùng chia sẻ thông tin, cùng hợp tác. Và thậm chí là phía EU cũng đã có những cam kết là sẽ có những hỗ trợ, đặc biệt là trong giai đoạn đầu thực thi các quy định mới, để tạo điều kiện thuận lợi cho đối tác của mình trong những hiệp định thương mại tự do, để tránh bị ảnh hưởng nhiều bởi những quy định này, và lâu dài có thể đáp ứng được những quy định đó. Và chúng ta cũng đang thúc đẩy qua những kênh trong Hiệp định EVFTA để có thể hợp tác và có sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp của chúng ta để có thể hiểu và từ đó có thể vượt qua được những quy định ngày càng khắt khe này của EU.
PV. Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, trong đó có chân kiềng đầu tư và thương mại xuất nhập khẩu. Điều này đặt ra các yêu cầu gì trong việc khai thác các thị trường trong EVFTA cũng như việc thực thi hiệp định này trong thời gian tới, thưa ông?
Ông Lương Hoàng Thái: Việt Nam cũng đang thúc đẩy mạnh những xu hướng lớn trên thế giới như chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, và chúng ta cũng tích cực tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và đã manh nha trở thành một nơi được các nhà đầu tư quốc tế coi là công xưởng của thế giới. Thì chúng ta không những cần thúc đẩy xuất khẩu sang EU mà đồng thời cũng cần thúc đẩy nhập khẩu từ EU và thúc đẩy thu hút đầu tư từ EU để có thể đan xen được lợi ích hài hòa giữa hai bên.
Hiện nay chúng ta đang xuất siêu rất lớn sang EU. Nhưng mà EU thì cũng là nơi họ có những công nghệ nguồn rất cần nhập khẩu sản phẩm, thiết bị tiêu chuẩn cao này. Và đặc biệt nếu như chúng ta có thể thu hút được vốn đầu tư từ EU một cách mạnh mẽ hơn trong thời gian tới thì đây cũng là cơ sở rất tốt để chúng ta thiết lập nên chuỗi cung ứng mới, và tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu với tiêu chuẩn cao, với những xu hướng mới mà chúng ta đang theo đuổi hiện nay.
Đơn cử như là doanh nghiệp Việt Nam bây giờ thì cũng đã bắt đầu tham gia vào quá trình chuyển đổi số ở EU, và cũng đã có giá trị xuất khẩu tương đối lớn ở quá trình chuyển đổi số này của EU, thậm chí là mua lại một số doanh nghiệp của EU hay là đầu tư sang EU để tham gia vào thị trường này.
Đây là những dấu hiệu tích cực. Tuy nhiên, như tôi đã nói thì tỷ lệ này vẫn chưa phải là lớn, và trong thời gian tới thì chúng ta cần phấn đấu hơn nữa cả về phía các cơ quan quản lý nhà nước có những biện pháp hỗ trợ phù hợp cũng như là từ phía doanh nghiệp có những nỗ lực hơn nữa để trên cơ sở những tiền đề từ Hiệp định ban đầu chúng ta có phát triển lên những cấp độ cao hơn của chuỗi cung ứng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!