Bài thơ “Trăng ngà” và tình bạn thuở hoa niên

(VOV5) - Nhà thơ Đỗ Nam Cao từng là biên tập viên, phóng viên Đài Phát thanh giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam (TNVN). Tình bạn giữa nhà thơ Đỗ Nam Cao với liệt sĩ Vũ Dũng là một tình bạn đẹp, trong sáng, còn mãi với thời gian.
Nghe âm thanh bài viết tại đây:
Khi tham gia là khách mời trong một chương trình thơ Đỗ Nam Cao ở Đài Tiếng nói Việt Nam, nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhắc đến bài “Trăng ngà” với lời nhận xét: đây là một trong những bài thơ rất hay của nhà thơ Đỗ Nam Cao. Và một trùng hợp tình cờ, tác giả Hoài Anh trong bài “Thơ Đỗ Nam Cao – nùi rơm ngun ngút cháy” cũng nhắc đến “Trăng ngà”:

Ẩn khuất đâu đây đầu làng cuối xóm

Dưới bếp hay trên nhà

Bên âm ẩm mùi đống rạ

Con trâu già đứng nhai rơm

 

Có tiếng quẫy

Soi mói cành sung bói cá

Bờ ao đỏ nhói con chuồn

Ẩn khuất đâu đây Dũng ẩn

Lẫn vào đêm trốn tìm

 

Nghe thấy thì thầm trai gái

Trong bụi chuối quả vàng lập lòe đom đóm

Trên cánh đồng mùa màng ngờm ngợp

Người người í ới say mê

Đòn gánh uốn cong deo dẻo

Lúa nằng nặng ngực gái quê

 

Nơi con dốc ngày ngày lững thững

Dũng khuya sớm đi về

Thăm thẳm thuyền từ Kẽm Trống

Vạt cỏ bờ đê vang động

Ba bờ sông ngẩn ngơ

Dũng ngồi nghe mãi câu hò

Ẩn khuất đâu đây rút ruột

Nỗi đau nghèn nghẹn miên man

 

Niềm vui hiếm hoi giấu nhẹm

Bao nhiêu thăng trầm có Dũng sẻ chia 

Kìa như chênh chênh mái rạ

Dũng ơi đâu đây bàng bạc trăng ngà

Nhân vật Dũng trong bài thơ tên đầy đủ là Vũ Dũng, bạn cùng lớp đại học với nhà thơ Đỗ Nam Cao. Theo như lời kể của các cựu sinh viên khóa 11 khoa Ngữ văn Tổng hợp năm xưa, hai chàng sinh viên Đỗ Nam Cao và Vũ Dũng là đôi bạn thân thiết. Họ hợp nhau ở nhiều điểm, đi đâu cũng có nhau. Quê gốc Đỗ Nam Cao ở Hà Tây, lớn lên ở Quảng Ninh. Quê Vũ Dũng ở thôn Đoan Vỹ, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Đó là một làng quê thuần nông, có giếng nước mái đình cây đa có núi, có sông, có những cánh đồng bát ngát.

Nơi Dũng sinh ra và lớn lên là ngôi nhà lợp bằng rơm rạ nằm trong khu vườn rộng mênh mông, với bóng dừa, bóng sung, bóng nhãn sum xuê ngả xuống những bờ ao; phóng tầm mắt ra xa, ngược lên phía dốc là con đê chạy dài, bờ cỏ mướt xanh, ngoài đê ấy là dòng sông Đáy bao la. Làng quê Dũng ở chốn ngã ba sông, ba làng ba tỉnh nghe chung tiếng gà (tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình). Nhà Dũng rất nghèo, chung cái nghèo của nông thôn đồng bằng Bắc Bộ thời điểm ấy. Dũng là út trong gia đình 10 anh chị em, Dũng lại sớm mồ côi mẹ, lớn lên, đi học trong sự trông ngóng của người cha, sự đùm bọc của các anh trai và chị gái, và khi trở thành sinh viên khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp, Dũng mang theo lên Hà Nội ước mơ của riêng Dũng cùng niềm tin, sự trông đợi của cả gia đình. Dũng khát khao trở thành một người làm văn chương chuyên nghiệp. Dũng khao khát được lăn vào thực tế. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt, cần những người trai dấn thân, hy sinh. Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Như nhiều sinh viên trí thức khác, Dũng tạm dừng bút nghiên, xung phong đi bộ đội, vào thẳng chiến trường Quảng Trị.

Trong trí nhớ của người anh trai nay đã ngoài 80 tuổi, em út ông - Vũ Dũng - cao to đẹp trai nhất nhà, thông minh học giỏi nhất nhà, là niềm tự hào của cả gia đình. Ở một trong những mặt trận khắc nghiệt nhất, Dũng trở thành pháo thủ chính, và Dũng đã hy sinh anh dũng trên mâm pháo. Sau trận tấn công điên cuồng của giặc, đồng đội đi tìm, chỉ biết đoán rằng “khúc đùi to nhất dài nhất này là của Dũng”.

Nhà báo Nguyễn Thế Khoa, bạn cùng lớp với nhà thơ Đỗ Nam Cao và liệt sỹ Vũ Dũng bồi hồi nhớ lại: "Anh Vũ Dũng học cùng lớp với chúng tôi (K11 khoa ngữ văn đại học tổng hợp Hà Nội – nay là đại học Khoa học xã hội và nhân văn – đại học Quốc gia Hà Nội). Anh là người xung phong đi bộ đội sớm nhất và đi thẳng vào chiến trường Quảng Trị, làm lính cao xạ, một pháo thủ số 1 ở khẩu đội pháo. Khi bị thương nặng, anh vẫn dũng cảm chỉ huy khẩu đội bắn vào giặc . Lớp chúng tôi rất tự hào về người bạn anh dũng ấy. Bạn bè của Vũ Dũng, anh Phạm Thành Hưng sau này có viết một bài ký rất hay “Người chưa thành thi sỹ”. Nếu Dũng còn sống có thể là một cán bộ chính trị hoặc có thể là một nhà thơ tuyệt vời. Nhưng Dũng đã hy sinh ngay ở lứa tuổi hai mươi, khi chưa tốt nghiệp trường đại học Tổng hợp. Ở bài thơ “Trăng ngà”, Cao luôn luôn thấy Dũng hiển hiện trong cuộc đời, nhất là khi Cao về quê Dũng, Cao cảm thấy Dũng ở trong mỗi đống rạ, trong mỗi nùi rơm, trong cả tiếng cá quẫy. Tất cả những gì ở quê hương của Dũng đều nhắc đến Dũng".

Bài thơ “Trăng ngà” và tình bạn thuở hoa niên - ảnh 1Nhà thơ Đỗ Nam Cao

“Trăng ngà” của nhà thơ Đỗ Nam Cao đã được ra đời từ niềm thương nhớ ấy, thương nhớ người bạn thuở hoa niên, thương nhớ những ngày hè bên bạn, cùng tắm sông, cùng lên núi Động, cùng bẫy chim bắt cá, ăn chung củ khoai hạt lạc dưới mái tranh nghèo ở làng quê Đoan Vỹ xã Thanh Hải Huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.

Kể từ khi chia tay bạn, mỗi người mỗi ngả chiến trường, dẫu không có dịp trở lại quê bạn nữa, thì những ảnh hình tươi xanh ấy đã ghim chặt trong trái tim rời rợi tuổi đôi mươi, để một lúc nào đó, nhà thơ Đỗ Nam Cao bật lên “Dũng ơi đâu đây bàng bạc trăng ngà”… 

Miền kỉ niệm về người bạn học thuở hoa niên có lẽ chưa bao giờ nguôi trong tâm hồn nhà thơ Đỗ Nam Cao, dù chính ông đã phải nếm trải nhiều cơn gió thời cuộc thổi dữ dội qua đời mình. Và góc tưởng niệm mà những người bạn khoa ngữ văn K11 đại học Tổng hợp dành cho liệt sỹ Vũ Dũng chính là niềm an ủi lớn lao đối với gia đình liệt sỹ, xoa dịu một phần nỗi đau mất mát. Họ như được thấy lại phần nào bóng hình con em họ. Bài thơ “Có thể nào thiếu bạn trong cuộc đời tôi”*, nằm trong di cảo ít ỏi còn sót lại của liệt sỹ Vũ Dũng, như một sự đáp từ những tấm lòng bè bạn, như Đỗ Nam Cao, Nguyên Bình, Nguyễn Thế Khoa, Nguyễn Thị Kim Cúc và các bạn học K11 Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội xưa.

Giờ này, ở thế giới bên kia, hai người bạn Đỗ Nam Cao và Vũ Dũng chắc chắn đã tìm thấy nhau, cùng ôn lại những ngày chung giảng đường, chung nơi sơ tán, chung cuốn sách đọc. Họ sẽ cười vang nhắc đến những kỳ nghỉ hè về quê Dũng, ra ao bắt cá, đi tắm sông, và khi đêm xuống cùng ngắm ánh trăng rời rợi trải mênh mông, phủ lên những tàn cây mái rạ, những nẻo đường, vạt cỏ, bờ đê lóng lánh. 

Kìa như chênh chênh mái rạ

Dũng ơi đâu đây bàng bạc trăng ngà

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác