Thứ nhất, đơn giản hóa điều kiện công nhận NLĐNN là chuyên gia tại Việt Nam
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình chuyển đổi số, Việt Nam dự kiến thúc đẩy việc triển khai các công trình, dự án trọng điểm quốc gia (như đường sắt cao tốc Bắc Nam, nhà máy điện hạt nhân, năng lượng xanh...). Do đó, nhu cầu tuyển dụng nhân lực nước ngoài cho các vị trí chuyên gia, nhà khoa học, lao động kỹ thuật cao thuộc các lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số... ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, quy định về điều kiện để công nhận chuyên gia tại Nghị định 152 đã cho thấy một số hạn chế, làm giảm tính cạnh tranh của thị trường Việt Nam trong việc thu hút lao động nước ngoài có năng lực, ví dụ như trường hợp sinh viên Lào đã tốt nghiệp tại Việt Nam trong nhóm ngành mới như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo nhưng chưa tích lũy đủ kinh nghiệm nên không được xem xét là chuyên gia tại Việt Nam. Theo Nghị định 152, Việt Nam công nhận NLĐNN là chuyên gia khi thuộc một trong các trường hợp sau:
(i) Tốt nghiệp đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc phù hợp với vị trí công việc mà NLĐNN dự kiến làm việc tại Việt Nam;
(ii) Có ít nhất 05 năm kinh nghiệm và có chứng chỉ hành nghề phù hợp với vị trí công việc dự kiến làm việc; hoặc
(iii) Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Nghị định 219 đã nới lỏng hơn các điều kiện này. Cụ thể, Nghị định 219 giảm yêu cầu về số năm kinh nghiệm còn 02 năm với trường hợp (i), đồng thời lược bỏ trường hợp (ii) và (iii). Bên cạnh đó, văn bản này ghi nhận thêm trường hợp chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực ưu tiên như tài chính, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội khác được công nhận theo quy định thì chỉ cần có bằng đại học đúng chuyên ngành và có ít nhất 01 năm kinh nghiệm phù hợp với vị trí công việc đó. Đặc biệt, các chuyên gia được các bộ, cơ quan ngang bộ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xác nhận vào Việt Nam làm việc trong các lĩnh vực: tài chính, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, các lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội sẽ không cần xin cấp giấy phép lao động, từ đó tạo điều kiện tối đa để tiếp cận việc làm tại Việt Nam.
Thứ hai, quy định thủ tục liên thông cấp phiếu lý lịch tư pháp, giấy phép lao động trực tuyến và cấp quyền cho NLĐNN được làm việc tại nhiều địa phương
Theo quy định tại Luật Lý lịch tư pháp 2009 và Nghị định 152, thủ tục cấp phiếu lý lịch tư pháp được thực hiện trực tiếp tại Sở Tư Pháp và thủ tục cấp giấy phép lao động thực hiện tại Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội hoặc Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội. Tuy nhiên, để rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính, Nghị định 219 đã xây dựng quy trình liên thông để cấp phiếu lý lịch tư pháp đồng thời với giấy phép lao động bằng hình thức trực tuyến. Cụ thể, theo uỷ quyền từ NLĐNN, người sử dụng lao động có thể nộp đồng thời hồ sơ đề nghị cấp phiếu lý lịch tư pháp và hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động theo trình tự, thủ tục như sau:
- Bước 1: Người sử dụng lao động nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động kèm hồ sơ đề nghị cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại cổng Dịch vụ công quốc gia;
- Bước 2: Cổng Dịch vụ công quốc gia chuyển các hồ sơ này đến cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép lao động và cơ quan công an có thẩm quyền cấp phiếu lý lịch tư pháp;
- Bước 3: Cơ quan công an tiếp nhận, xử lý hồ sơ và gửi Phiếu lý lịch tư pháp bản điện tử về cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép lao động nếu hồ sơ hợp lệ (hoặc đề nghị bổ sung, chỉnh sửa, hoàn trả hồ sơ không hợp lệ);
- Bước 4: Cơ quan cấp giấy phép lao động thẩm định hồ sơ, trả kết quả đồng thời giấy phép lao động và Phiếu lý lịch tư pháp bằng bản điện tử nếu hồ sơ hợp lệ.
Lưu ý rằng, người sử dụng lao động vẫn có thể thực hiện các thủ tục này bằng các hình thức khác như trực tiếp tại cơ quan có thẩm quyền, sử dụng dịch vụ bưu chính công ích,... Đồng thời, sau khi được cấp giấy phép lao động, NLĐNN được quyền linh hoạt làm việc tại nhiều tỉnh, thành, với điều kiện mỗi lần di chuyển địa điểm làm việc, người sử dụng lao động thông báo trước ít nhất 03 ngày làm việc cho cơ quan có thẩm quyền tại địa phương nơi NLĐNN dự kiến làm việc.
Thứ ba, sửa đổi thẩm quyền cấp giấy phép lao động
Trước đây, Nghị định 152 quy định Bộ Lao động, Thương Binh và Xã hội hoặc Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội (nay là Bộ/Sở Nội vụ) trong việc thực hiện thủ tục cấp, cấp lại, gia hạn, thu hồi giấy phép lao động và xác nhận trường hợp NLĐNN không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Tuy nhiên, Điều 4 Nghị định 219 đã chuyển đổi thẩm quyền về Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các thủ tục này, đồng thời cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp cho cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thực hiện. Việc sửa đổi thẩm quyền theo quy định mới đã tạo điều kiện để từng địa phương chủ động, linh hoạt hơn trong quản lý và giải quyết thủ tục cho NLĐNN hoạt động trên địa bàn.
Nhìn chung, Nghị định 219 được xây dựng trên cơ sở tiếp tục kế thừa những quy định của Nghị định 152 phù hợp với thực tiễn xã hội và xử lý các vướng mắc khi áp dụng quy định cũ, từ đó thu hút thêm nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Các quy định mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tuyển dụng lao động nước ngoài có trình độ kỹ thuật cao phục vụ công việc mà nguồn nhân lực tại Việt Nam chưa có khả năng đáp ứng. Trong trường hợp Quý Khách hàng và bạn đọc có mong muốn tìm hiểu thêm và được tư vấn liên quan đến các quy định mới của Nghị định 219 cũng như những vấn đề khác trong lĩnh vực lao động nói chung, Văn phòng luật sư NHQuang&Cộng sự sẵn sàng giải đáp, cung cấp các ý kiến pháp lý liên quan tới Quý Khách hàng và bạn đọc.
Văn phòng Luật sư Nguyễn Hưng Quang và cộng sự.
Nhà B23, Khu Biệt thự Trung Hoà – Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Điện thoại: (84)02435376939. Fax: (84)02435376941
Website: www.nhquang.com