Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh thông báo cho ông Trần Văn Châu, sinh năm 1962; nơi cư trú: 1243 North Shore - Ct Wichita KS 67212-USA (Hoa Kỳ) biết: Tại bản dân sự sơ thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 23-5-2025 quyết định:
Căn cứ Điều 609, 611, 612, 613, 649, 650, 651 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 193 Bộ luật Tố tụng hành chính; các Điều 147, Điều 157, Điều 158, khoản 2 Điều 165, Điều 217, khoản 1, khoản 2 Điều 228, điểm c khoản 5 Điều 477, khoản 3 Điều 479 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Căn cứ Điều 26; Điều 27; điểm h, khoản 1, Điều 28;127; 236 Luật Đất đai năm 2024; căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 và điểm a khoản 1 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; Án lệ số 06/2016 do Toà án nhân dân tối cao công bố được áp dụng từ ngày 20-6-2016.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Si Lên về việc “Chia di sản thừa kế” đối với bà Trần Thị Cháp.
2. Di sản thừa kế của cụ Mười và cụ Dọn được chia như sau:
2.1. Chia cho ông Trần Si Lên được quyền sử dụng phần đất có diện tích 2.929,78 m2 thửa đất 293, tờ bản đồ số 33 (tờ bản đồ mới là 47) đất tọa lạc tại khu phố An Phú, phường An Hòa, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh trị giá 10.564.786.680 đồng phần đất có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp đất chia cho bà Yến dài 77,21 m;
+ Hướng Tây giáp thửa 303 dài 56,39 m + thửa 252 dài 37,4 m;
+ Hướng Nam giáp đường nhựa dài 47,62 m;
+ Hướng Bắc giáp thửa 272 dài 18,62 m.
Và được quyền sở hữu, quản lý sử dụng tài sản và cây trái trên đất gồm: Hàng rào lưới B40, kết cấu; Móng gạch, trụ bê tông đúc sẵn, rào lưới B40, cao 2m trị giá 57.000.000 đồng; 10 cây sầu riêng 06 năm tuổi trị giá 74.130.000 đồng; 06 cây dừa lớn trị giá 3.600.000 đồng; 03 cây dừa nhỏ trị giá 750.000.000 đồng và hưởng số tiền 911.872.390 (Chín trăm mười một triệu tám trăm bảy mươi hai nghìn ba trăm chín mươi đồng).
Buộc ông Trần Si Lên có trách nhiệm giao cho bà Trần Thị Cháp số tiền 135.480.000 (Một trăm ba mươi lăm triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng) giá trị hàng rào và cây trên đất.
2.2 Chia cho bà Trần Thị Cháp được quyền sử dụng và quản lý diện tích 3.073,57 m2 trong đó có 298,832 m2 đất thổ cư, đất thuộc một phần thửa 112, tờ đồ số 33 (thửa đất mới 292, tờ bản đồ số 47) đất tọa lạc tại khu phố An Phú, phường An Hòa, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp các thửa đất 270; 271; 284; 285; 291; 290; 304 dài 72,36 m;
+ Hướng Tây đất chia cho bà Yến dài 75,75 m;
+ Hướng Nam giáp đường nhựa dài 39,87 m;
+ Hướng Bắc giáp thửa 272 dài 17,80 + 5,31m thử 251 dài 28,49 m.
Trên đất có 01 căn nhà lầu 01 trệt và 01 tầng lầu, kết cấu: Móng, cột BTCT, sàn BTCT, nền gạch men 39 x 30, tường xây tô sơn P, cửa sắt kính, mái tôn, xây năm 1993 diện tích 165,5 m2 giá 349.800.000 đồng; nhà ngói (cạnh nhà lầu, kết cấu nền gạch men 20 x 20, tường xây tô, cột gỗ + gạch, mái ngói, móng gạch, cửa sắt kéo, mượn một vách tường nhà lầu, xây dựng năm 1965 diện tích 115,2 m2 giá 96.497.280 đồng tổng cộng 02 căn nhà tài sản là: 446.297.280 đồng.
Trong diện tích 3.073,57 m2 có 1.507,11 m2 đất tạm giao cho bà Cháp quản lý phần của ông Châu và quản lý đất nhà mồ có diện tích 69,5m2.
Tạm giao cho bà Cháp quản lý phần đất có diện tích 5.381,2 m2 đất thử số 45, tờ bản đồ số 4 (thửa đất mới 43, tờ bản đồ số 25) đất tọa lạc khu phố An Thành, phường An Tịnh, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Sau này ông Châu khởi kiện tách ra giải quyết ở vụ kiện khác.
2.3. Chia cho bà Trần Thị Yến được quyền sở hữu sử dụng phần đất có diện tích diện tích 996,05 m2, trong đó có 101,168 m2 đất thổ cư một phần thửa 112, tờ đồ số 33 (thửa đất mới 292, tờ bản đồ số 47) đất tọa lạc tại khu phố An Phú, phường An Hòa, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Có tứ cận:
+ Hướng Đông giáp đất chia cho bà Cháp dài 75,75 m;
+ Hướng Tây đất chia cho thửa 293 dài 79,03 m;
+ Hướng Nam giáp đường nhựa dài 13,43 m;
+ Hướng Bắc giáp thửa 272 dài 13,65 m.
Trên đất có hàng rào B 40 chiều dài, 82 m + 10,34 m + 42,82 m + 24,05 m + 13,65 m (x2m chiều cao) x 361.000 đồng x 50% = 33.457.480 đồng; Tường rào phía trước dài 13,43 x cao 2,7 m x 1.421.000 đồng x 60% = 32.061.170 đồng; Cây trồng trên đất 01 cây Sứ cao 4 m trị giá 450.000 đồng; 01 cây Xoài khoản 20 năm tuổi trị giá 2.852.000 đồng; 02 cây bằng lăng đường kính gốc khoảng 30 cm giá 1.200.000 đồng; 01 cây Chùm Ruột khoản 5 năm tuổi trị giá 360.000 đồng; 01cây Tràm Vàng đường kính khoảng 60 cm trị giá 3.000.000 đồng; 01 cây Sao lớn đường kính gốc khoảng 60 cm trị giá 3.000.000 đồng và được quyền sử dụng phần đất thửa số 18,19, tờ bản đồ 6 (thửa 335, 356, tờ bản đồ số 47) khu phố An Phú, phường An Hòa, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh diện tích 2.720,70 m2 trị giá 4.880.935.800 đồng, trên đất có Tầm Vong trị giá 2.500.000 đồng.
Bà Yến được quyền sở hữu cây trái và tài sản trên đất.
2.3.1. Buộc bà Trần Thị Yến có nghĩa vụ trả cho bà Trần Thị Cháp số tiền 76.380.650 (Bảy mươi sáu triệu ba trăm tám mươi nghìn sáu trăm năm mươi đồng) tiền hàng rào và giá trị cây trên đất và có nghĩa vụ giao cho bà Cháp số tiền 77.292.250 (Bảy mươi bảy triệu hai trăm chín mươi hai nghìn hai trăm năm mươi đồng) tiền chêch lệch chia tài sản. Tổng cộng: 153.672.900 (Một trăm măm mươi ba triệu sáu trăm bảy mươi hai nghìn chín trăm đồng).
3. Buộc bà Trần Thị Cháp có nghĩa vụ di dời các cây mai trên đất chia cho bà Trần Thị Yến đi nơi khác.
4. Buộc bà Trần Thị Yến có trách nhiệm giao cho ông Trần Si Lên số tiền 911.872.390 (Chín trăm mười một triệu tám trăm bảy mươi hai nghìn ba trăm chín mươi đồng) tiền chêch lệch chia di sản thừa kế.
Ghi nhận ông Trần Si Lên và bà Trần Thị Yến không yêu cầu chia 01 căn nhà lầu 01 trệt và 01 tầng lầu, kết cấu: Móng, cột BTCT, sàn BTCT, nền gạch men 39 x 30, tường xây tô sơn P, cửa sắt kính, mái tôn, xây năm 1993 diện tích 165,5 m2 giá 349.800.000 đồng; nhà ngói (cạnh nhà lầu, kết cấu nền gạch men 20 x 20, tường xây tô, cột gỗ + gạch, mái ngói, móng gạch, cửa sắt kéo, mượn một vách tường nhà lầu, xây dựng năm 1965 diện tích 115,2 m2 giá 96.497.280 đồng tổng cộng 02 căn nhà tài sản là: 446.297.280 đồng.
Thửa mới 292, tờ bản đồ số 47, thửa trước là thửa 112 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số đất số 00054 QSDĐ/180/2002/QĐ-CT(HL) ngày 04/6/2002 và thửa 335, 356, tờ bản đồ số 47 trước là thửa 18, 19, tờ bản đồ số 33, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 02970 QSDĐ/261/2003/QĐ-CT(HL) ngày 25/8/2003 do Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bàng (nay là thị xã Trảng Bàng), tỉnh Tây Ninh cấp cho bà Phạm Thị Dọn đứng tên quyền sử dụng đất.
(Sơ đồ đất số 79/2025/SĐHT-Cty và sơ đồ số 633/2024/SĐHT-CT kèm theo bản án)
5. Giao kỷ phần của ông Trần Văn Châu cho bà Trần Thị Cháp quản lý gìn giữ sau này ông Châu có yêu cầu, tách ra giải quyết ở vụ kiện khác.
…
11. Các bên đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Ông Trần Văn Châu được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án.
12. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
+ Thông báo kháng cáo số: 18/2025/TB-TA ngày 06 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh:
“Ngày 05 tháng 6 năm 2025, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh nhận được đơn kháng cáo đề ngày 04 tháng 6 năm 2025 của bà Trần Thị Cháp và ông Huỳnh Văn Mai.
Kháng cáo đối với Bản án sơ thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Những vấn đề cụ thể trong đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm: bà Trần Thị Cháp và ông Huỳnh Văn Mai kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2025/DS-ST ngày 23 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, yêu cầu sửa bản án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo nộp các tài liệu, chứng cứ bổ sung: Đơn xin miễn tạm ứng án phí phúc thẩm của bà Trần Thị Cháp và ông Huỳnh Văn Mai.
Căn cứ vào Điều 277 của Luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh và các đương sự được biết.
Sau khi nhận được thông báo này, người được thông báo có quyền gửi cho Toà án cấp phúc thẩm văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) để Tòa án cấp phúc thẩm đưa vào hồ sơ vụ án và xem xét khi xét xử phúc thẩm.”