Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về

(VOV5) - Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian khó, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều kiều bào đã chọn rời xa cuộc sống yên bình nơi xứ người để trở về quê hương, chung tay cùng dân tộc trong cuộc chiến giành độc lập cho Tổ quốc.

Cuộc tọa đàm sôi nổi của phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam với ba nhà báo, những kiều bào từng làm việc tại Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam từ những ngày bom đạn khốc liệt cho đến khi nghỉ hưu, thể hiện chân thực và xúc động câu chuyện đó.

Nghe âm thanh tại đây: 

Nhà báo Hoàng Hướng: Kính thưa quý khán giả của Đài Tiếng nói Việt Nam, trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ đầy gian khó, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều kiều bào đã chọn rời xa cuộc sống yên bình nơi xứ người để trở về quê hương, chung tay cùng dân tộc trong cuộc chiến giành độc lập cho Tổ quốc. Cuộc tọa đàm hôm nay sẽ mang đến những câu chuyện chân thực và xúc động về hành trình của họ. Chúng tôi rất vinh dự được trò chuyện với ba vị khách mời – những kiều bào từng công tác tại Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam từ những ngày bom đạn khốc liệt cho đến khi nghỉ hưu.

Xin trân trọng giới thiệu:

- Ông Đỗ Trường Sơn, một dịch giả nổi tiếng với bút danh Đỗ Quyên, nguyên Trưởng phòng Tiếng Trung Quốc, Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam.

- Ông Phạm Đình Quế, nguyên Trưởng phòng Tiếng Lào, Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam.

- Bà Nguyễn Thùy Minh, nguyên Trưởng phòng Tiếng Thái Lan, Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam.

Kính thưa các vị khách mời, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, không chỉ trong việc chi viện cho chiến trường miền Nam mà còn trong đời sống của người dân miền Bắc khi xây dựng xã hội chủ nghĩa. Dù vậy, thời điểm đó, rất nhiều kiều bào đã trở về quê hương, tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chúng ta hãy bắt đầu với câu hỏi đầu tiên để hiểu rõ hơn về hành trình đặc biệt này.

Nhà báo Hoàng Hướng: Thưa bà Nguyễn Thị Thùy Minh, trong thời điểm bà quyết định trở về Việt Nam theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc sống của bà và gia đình ở nước ngoài như thế nào? Điều gì đã thôi thúc bà quay về quê hương?

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 1Bà Nguyễn Thị Thùy Minh

Bà Nguyễn Thùy Minh: Thưa nhà báo Hoàng Hướng, nói thật là Việt kiều ở nước ngoài thì cuộc sống nói chung cũng rất khá giả. Tôi sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Bố tôi là lão thành cách mạng, mẹ tôi là người Thái, trước khi nghỉ hưu cũng được phong là lão thành cách mạng và được tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì. Lúc tôi còn nhỏ, vào khoảng năm 1960, bố tôi đã hoạt động cách mạng từ lâu. Ông muốn đón hai mẹ con tôi về Việt Nam để sum họp và cùng xây dựng đất nước.

Lúc đó, tôi không biết tí tiếng Việt nào. Khi tàu chở Việt kiều về đến Hải Phòng, chúng tôi được đón tiếp rất nồng nhiệt. Tôi nhớ mãi một kỷ niệm: có một cháu nhỏ hát bài "Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng". Lúc bấy giờ, tôi chỉ nghe được giai điệu chứ không hiểu lời. Nhưng giai điệu ấy đã in sâu vào tâm trí tôi. Sau này, khi học tiếng Việt, tôi nhận ra bài hát đó nói về những chiến thắng và niềm tự hào của người dân, của đất nước trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Chính giai điệu ấy đã đi vào ký ức của tôi, kể cả khi tôi chưa hiểu tiếng Việt, và khiến tôi cảm nhận được sự tự hào của dân tộc.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh với câu chuyện đầy cảm xúc. Vậy sau khi trở về Việt Nam, hành trình học tập và công tác của bà đã diễn ra như thế nào?

Bà Nguyễn Thùy Minh: Sau khi về nước, tôi bắt đầu đi học phổ thông. Đến khi tốt nghiệp lớp 10, Nhà nước đã tạo điều kiện cho tôi đi du học ở Triều Tiên. Tôi học ở đó năm năm, và sau khi tốt nghiệp trở về Việt Nam. Lúc đó, Bộ Đại học nói rằng tất cả lưu học sinh có thể tự chọn cơ quan mình muốn làm việc, và Bộ sẽ cấp giấy giới thiệu. Tôi đơn giản là về nói với bố tôi, hỏi xem chỗ nào cần người biết tiếng Thái không. Rồi tôi nhớ ra có một người bạn cũng là Việt kiều làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam. Sau đó, Đài đã nhận tôi vào làm. Tôi thấy làm ở Đài rất hay, vì vừa cải thiện được tiếng Việt, vừa trau dồi tiếng Thái. Tôi đã gắn bó với Đài và sau này trở thành Trưởng phòng Tiếng Thái Lan thuộc Ban Đối ngoại.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh với những chia sẻ về hành trình gắn bó với Đài Tiếng nói Việt Nam. Thưa ông Đỗ Trường Sơn, ông cũng là một kiều bào từ Trung Quốc trở về. Ông có thể chia sẻ về hành trình của mình khi cập bến Đài Tiếng nói Việt Nam?

Ông Đỗ Trường Sơn: Tôi sinh ra ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hồi ấy, khi đang học cuối cấp 3, phong trào Chống Mỹ cứu nước diễn ra rất mạnh mẽ. Nhiều thanh niên, đặc biệt là con em hữu nghị – tức là có bố hoặc mẹ là người Trung Quốc – cũng tham gia học tiếng Việt. Tôi đã tham gia dạy tiếng Việt trong phong trào này. Đến tháng 10, tôi về Việt Nam và làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam, ở phòng Tiếng Trung Quốc.

Buổi tối, tôi đi học bổ túc văn hóa, chủ yếu là tiếng Việt. Ngoài ra, tôi đọc rất nhiều sách và báo, đặc biệt là báo Văn Nghệ, để nâng cao tiếng Việt. Dần dần, khả năng tiếng Việt của tôi được cải thiện như vậy.

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 2Ông Đỗ Trường Sơn

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn ông Đỗ Trường Sơn. Thưa ông Phạm Đình Quế, là một kiều bào từ Thái Lan trở về, ông có thể chia sẻ về hành trình của mình khi đến với Đài Tiếng nói Việt Nam?

Ông Phạm Đình Quế: Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cách mạng ở tỉnh Udon, Thái Lan, nơi hiện nay có Khu lưu niệm của Bác Hồ. Ông ngoại tôi từng trông nom vườn tược cho Bác Hồ khi Người hoạt động ở đó. Mẹ tôi tham gia Hội Phụ nữ Cứu Quốc. Trước năm 1960, có phong trào kêu gọi kiều bào về xây dựng đất nước. Gia đình tôi theo cách mạng, và các anh em trong nhà, khi đó 18, 19 tuổi, rất hào hứng với phong trào này.

Tuy nhiên, để về Việt Nam, bên Thái Lan yêu cầu phải có bố mẹ đi cùng. Tôi đã xin làm con nuôi của một gia đình khác để tham gia chuyến tàu số 18, năm 1960. Khi về đến Hà Nội, tôi được biết Đài Tiếng nói Việt Nam đang cần người. Lúc đó, phòng Tiếng Lào chỉ có duy nhất chị Cao Thị Bích Liên là người Việt Nam làm phát thanh viên, còn lại toàn người Lào. Đài tổ chức tuyển chọn, và tôi thi đậu.

Ban đầu, Đài bảo tôi làm ở phòng Tiếng Lào, nhưng tôi chỉ biết tiếng Thái, chưa biết tiếng Lào. Thế là trong ba tháng, tôi tự ôn luyện tiếng Lào, chuyển từ chữ Thái sang chữ Lào. May mắn là giọng tôi khỏe, nên sau khi học xong, tôi bắt đầu làm việc tại Đài. Học tiếng Lào khá vất vả, nhưng tôi đã cố gắng để thích nghi và làm tốt công việc.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn ông Phạm Đình Quế với câu chuyện đầy cảm hứng. Qua chia sẻ của ba vị khách mời, chúng ta thấy rõ tinh thần yêu nước và nhiệt huyết của các kiều bào khi trở về góp sức xây dựng quê hương. Thưa các vị, trong suốt giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, không khí làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam thời kỳ ấy như thế nào? Xin mời ông Đỗ Trường Sơn.

Ông Đỗ Trường Sơn: Thời kháng chiến chống Mỹ, khi tôi còn ở Trung Quốc, phong trào yêu nước rất mạnh, thanh niên lúc nào cũng hướng về đất nước. Sau khi về Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi thấy đời sống thời đó rất gian khổ. Đài phân cho chúng tôi ở khu tập thể dưới Bạch Mai, còn làm việc tại 58 Quán Sứ. Buổi sáng, đến nơi làm việc, mỗi người được phát hai cái quẩy để ăn sáng, rồi bắt đầu công việc.

Với tôi, việc chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Trung Quốc rất dễ dàng, nên công việc không có gì khó khăn. Tôi từng tham gia hai chuyến công tác khi đoàn Trung Quốc sang Việt Nam quay phim và chụp ảnh. Không khí làm việc lúc đó rất căng thẳng nhưng cũng rất sôi nổi. Tuy nhiên, với tôi, mọi thứ cảm thấy rất bình thường, vì tôi đã quen với tinh thần ấy.

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 3Ông Phạm Đình Quế

Nhà báo Hoàng Hướng: Với ông Phạm Đình Quế, khi bắt nhịp với công việc tại Đài và chuyển từ tiếng Thái sang tiếng Lào, ông có gặp nhiều khó khăn không?

Ông Phạm Đình Quế: Nói chung, bước đầu thì khó khăn, nhưng tôi khắc phục bằng cách chăm chỉ. Khi mới vào Đài, tôi chỉ làm tập sự, không có lương, cũng không có bằng cấp. Đài nhận tôi vì giọng nói tốt. Chuyên gia yêu cầu tôi phải học thêm, và tôi đã nỗ lực học tiếng Lào để đáp ứng công việc.

Bà Nguyễn Thùy Minh: Thời đó, tôi làm ở Ban Thời sự của Đài, một ban rất quan trọng, luôn phải đưa tin kịp thời. Chỉ thị của Ban lãnh đạo Đài quán triệt rằng tất cả phóng viên, biên tập viên ở các ban, trong những ngày như vậy, không được nghỉ, trừ trường hợp cần thiết. Riêng Ban Thời sự phải trực cả ngày lẫn đêm. Bất kỳ lúc nào có tin chiến sự từ miền Nam, chúng tôi phải phát ngay.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh với những chia sẻ đầy cảm xúc. Thưa ông Đỗ Trường Sơn, trong giai đoạn ác liệt của kháng chiến, đặc biệt khi Mỹ ném bom miền Bắc, Đài Tiếng nói Việt Nam đã đối mặt với những thử thách gì?

Ông Đỗ Trường Sơn: Vào những năm 1971, 1972, khi Mỹ ném bom miền Bắc, Đài Tiếng nói Việt Nam bắt đầu sơ tán. Trước đó, đã có dự đoán rằng nếu Đài bị Mỹ ném bom hủy diệt, chúng tôi sẽ chuyển sang phát sóng ở thành phố Côn Minh, Trung Quốc. Sau khi trở về Việt Nam, tôi được lệnh quay lại Côn Minh cùng hai đồng nghiệp và một số máy móc. Sau đó, cả đoàn của Đài Tiếng nói Việt Nam cũng sang Côn Minh để chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.

Ông Phạm Đình Quế: Tiếp theo ý của anh Sơn, ở bên Côn Minh, chúng tôi phát các chương trình thời sự, còn tất cả những bài dài thì bên này làm, gửi qua giao liên bằng tàu hỏa. Thời sự thì được làm trực tiếp và phát luôn ở đó. Hà Nội đánh morse sang bên Côn Minh, rồi chúng tôi ghi lại để phát.

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 4
Bà Thùy Minh (thứ 2 từ trái sang) cùng các đồng nghiệp đã từng làm việc tại Chương trình Tiếng Thái Lan

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn ông Đỗ Trường Sơn và ông Phạm Đình Quế. Nội dung tuyên truyền, thông tin của Đài Tiếng nói Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ thường tập trung vào những mảng nào?

Bà Nguyễn Thùy Minh: Thời ấy, các chương trình của Đài thường tập trung vào việc nhân dân Việt Nam quyết tâm phấn đấu hoàn thành thống nhất đất nước. Theo tinh thần ấy, tất cả phóng viên và biên tập viên đều mang tinh thần chiến sự, tức là làm việc không biết mệt mỏi, trực 24/24 để đảm bảo tin tức được phát kịp thời.

Ông Phạm Đình Quế: Tôi muốn bổ sung thêm. Trước kia, ở Ban Đối ngoại, hầu như không ai đọc thẳng bản tin. Nhưng với tình hình cụ thể, tôi thường xuyên phải đọc thẳng vì chương trình tiếng Lào của tôi hay rơi vào đúng giờ có tin máy bay rơi. Lúc đó, không đọc thẳng thì không được. Ví dụ, chương trình phát thanh tiếng Lào bắt đầu lúc 6 giờ. Khi có tin máy bay rơi ở đâu, đối nội phát trước, rồi đối ngoại cũng phát ngay. Tôi cầm bản tin bằng tiếng Việt và đọc thẳng sang tiếng Lào, vì không có thời gian dịch trước.

Nhà báo Hoàng Hướng: Vậy nội dung của những bản tin ấy như thế nào, thưa ông Phạm Đình Quế?

Ông Phạm Đình Quế: Đó là tin về máy bay rơi ở đâu, bao nhiêu chiếc, và tình hình ra sao. Rất nhiều lần chúng tôi phải đọc thẳng như thế. Những thông tin này rất quan trọng với thính giả Lào, vì chiến trường hai bên liên quan chặt chẽ. Tất cả tin tức về chiến trường Việt Nam, thính giả Lào đều biết ngay lập tức.

Nhà báo Hoàng Hướng: Thính giả quốc tế quan tâm như thế nào đến tình hình chiến sự ở Việt Nam thời điểm ấy? Xin mời ông Phạm Đình Quế chia sẻ thêm.

Ông Phạm Đình Quế: Thư của thính giả từ Lào gửi đến Đài Tiếng nói Việt Nam chỉ ít hơn tiếng Anh, vì tiếng Anh có phạm vi phổ biến rộng hơn. Nhưng tiếng Lào nhận được nhiều thư hơn các thứ tiếng khác, vì chương trình liên quan trực tiếp đến chiến trường Lào. Thính giả Lào rất quan tâm, khiến chúng tôi cảm nhận được trách nhiệm lớn lao của mình. Chúng tôi chú ý đến thư thính giả, phản ánh việc Mỹ ném bom như thế nào, quan điểm và lập trường của Việt Nam ra sao qua các bài bình luận.

Những bài bình luận ấy, khi chuyên gia Lào đọc, họ nói không đủ sức hút. Họ bảo rằng người Việt đọc bình luận có khí thế hơn người Lào. Vì vậy, tất cả các bài bình luận đều do tôi đọc. Đó cũng là vinh dự của tôi.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn ông Phạm Đình Quế. Còn đối với thính giả Trung Quốc thì sao, thưa ông Đỗ Trường Sơn?

Ông Đỗ Trường Sơn: Người Trung Quốc rất ủng hộ Việt Nam, nên họ quan tâm đến tin chiến sự. Qua các chương trình phát thanh của chúng tôi, họ hiểu được những tình hình mà họ quan tâm.

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 5Ông Đỗ Trường Sơn (thứ 3 từ phải sang) cùng các đồng nghiệp Phòng Trung Quốc 

Nhà báo Hoàng Hướng: Khi các ông, các bà trở về với Đài Tiếng nói Việt Nam, đều ở độ tuổi rất trẻ. Trong một giai đoạn khó khăn như thế, gắn với gia đình, động lực nào giúp các phóng viên, biên dịch viên trẻ gắn bó với Đài và đảm bảo cuộc sống gia đình? Xin mời bà Nguyễn Thị Thùy Minh.

Bà Nguyễn Thùy Minh: Do phong trào của đất nước lúc bấy giờ, tất cả đều hy sinh vì Tổ quốc. Ai có khả năng đảm nhiệm công việc gì, khi Nhà nước phân công hay kêu gọi, đều tham gia hết mình. Tôi rất tự hào khi làm ở Ban Thời sự. Có những hôm trực đêm, chúng tôi được báo rằng hôm nay có tin chiến sự đặc biệt, mọi người phải chú ý. Tự nhiên, tôi thấy phấn khởi, không nghĩ đến khó khăn của việc trực đêm. Không chỉ Ban Thời sự, tất cả các ban đều có sự háo hức như thế. Cái đó mang lại cho tôi niềm tin, niềm vui để theo nghề.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh. Khi nghe tin đất nước thống nhất, không khí tại Đài Tiếng nói Việt Nam lúc đó như thế nào ạ?

Bà Nguyễn Thùy Minh: Lúc đó, tất cả mọi người đều nhảy lên hô vang: “Miền Nam giải phóng rồi, đất nước thống nhất rồi!” Ký ức đó không thể nào quên được. Hôm ấy, khi nghe tin Chính quyền Ngụy đọc bản đầu hàng, tất cả Ban Thời sự đều đi làm, dù không phải phiên trực của mình. Mọi người ở lại để trực, vì đấu tranh để thống nhất Tổ quốc là điều thiêng liêng như thế!

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh. Thưa ông Phạm Đình Quế, không khí ở Ban Đối ngoại lúc đó ra sao?

Ông Phạm Đình Quế: Năm giải phóng, khi tôi là Trưởng phòng Tiếng Lào, tinh thần chung là coi công việc của Đài như công việc nhà mình. Anh em chúng tôi bàn bạc, phân công thay phiên nhau trực. Ngày giải phóng, có những tin tức rất quan trọng mà thế giới quan tâm, nên trách nhiệm của chúng tôi phải cao nhất.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cả một hành trình làm việc tại Đài, được chứng kiến những ngày cả nước vui mừng khi đất nước thống nhất, nhìn lại, nghề phát thanh đối ngoại mang lại những kỷ niệm và vinh dự gì cho các ông, các bà? Xin mời bà Nguyễn Thị Thùy Minh.

Bà Nguyễn Thùy Minh: Về công tác biên dịch, khi các cơ quan cần tiếng Thái, như các đoàn Quốc hội giao lưu, tôi được mời đi dịch. Lần đầu tiên, Quốc hội rất ưng ý với bản dịch của tôi. Từ đó, cứ có đoàn Quốc hội Thái Lan và Việt Nam, họ đều mời tôi.

Có một lần, tôi đi dịch cho Chủ tịch Nông Đức Mạnh. Sau khi dịch xong, đồng chí Nông Đức Mạnh hỏi: “Chị là người Việt Nam hay người Thái, làm ở đâu mà dịch hay như thế? Dịch không ngần ngại, không vấp, rất tình cảm, có lý, có tình.” Đó là ký ức không bao giờ quên. Ngoài ra, mấy năm trước khi về hưu, tôi được chỉ định mở cơ quan thường trú đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam tại Thái Lan. Dù chủ yếu làm biên dịch, không phải phóng viên, tôi nghĩ với kinh nghiệm ở Ban Thời sự, mình sẽ làm được. Tôi đã cố gắng và mở cơ quan thường trú thành công. Đó là một thử thách, nhưng cũng là ký ức quý giá về nghề làm báo của tôi.

Nhà báo Hoàng Hướng: Cảm ơn bà Nguyễn Thị Thùy Minh. Thưa ông Đỗ Trường Sơn, việc làm việc tại Đài đã giúp ông như thế nào trong việc trở thành một dịch giả nổi tiếng với bút danh Đỗ Quyên?

Ông Đỗ Trường Sơn: Việc dịch phim là một cơ duyên. Tôi nhớ khi Đài Truyền hình Việt Nam phát Tây Du Ký đến tập cuối, họ tìm đến tôi để dịch. Sau khi dịch xong Tây Du Ký, tôi tiếp tục dịch Hồng Lâu Mộng, đảm nhiệm toàn bộ các tập. Sau đó là Khát VọngTể tướng Lưu Gù. Dịch phim không chỉ là dịch ngôn ngữ, mà phải toát lên cái hồn của bộ phim. Khi người ta nghe lời dịch của tôi, họ cảm nhận được sự thấm thía. Nhờ làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi có cơ hội được các đơn vị tìm đến để thực hiện những dự án dịch thuật như thế.

Tự hào VOV: Nơi nguồn cội hướng về - ảnh 6Ông Phạm Đình Quế (thứ 2 từ phải sang) một dịp về dự kỷ niệm ngày thành lập Đài Tiếng nói Việt Nam tại Ban Đối ngoại

Ông Phạm Đình Quế: Tôi rất vinh dự khi được làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam, nơi có thương hiệu lan tỏa và tiếng thơm ra bên ngoài. Trong quá trình làm việc, tôi được mời dịch cho rất nhiều cơ quan, từ Quốc hội, Chính phủ, đến Trung ương Đảng. Tôi dịch từ thời Bác Hồ, Bác Võ Nguyên Giáp, Bác Trường Chinh, Bác Lê Duẩn, cho đến năm 2014, tôi vẫn dịch cho Bác Nguyễn Phú Trọng.

Trong quá trình đó, tôi viết hai quyển từ điển, rất hiếm và không bán trên thị trường. Tôi cũng được dịch cho các vị lãnh đạo Lào. Những trải nghiệm này là niềm tự hào lớn của tôi khi làm phát thanh đối ngoại.

Nhà báo Hoàng Hướng: Vâng, khi làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam với chuyên môn ngoại ngữ vững vàng, các vị đã được các cơ quan Đảng, Nhà nước tin tưởng mời dịch cho các nguyên thủ và đoàn ngoại giao khi sang thăm Việt Nam. Đó cũng là niềm tự hào của những người làm phát thanh đối ngoại trong suốt chặng đường của mình. Xin cảm ơn các vị khách mời hôm nay đã đến Đài Tiếng nói Việt Nam, chia sẻ những câu chuyện về công việc, trải nghiệm, và niềm tự hào khi gắn bó với Đài suốt những năm qua.

MC Bảo Trang: Vâng, thưa quý thính giả, những chia sẻ của ba nhà báo kiều bào như vừa khơi lại ngọn lửa nhiệt huyết của một thế hệ đã sống và cống hiến hết mình cho quê hương. Họ, dù có người ban đầu chưa biết tiếng Việt, đã mang trong mình tình yêu nước nồng cháy, vượt qua mọi thử thách để cống hiến cho Tổ quốc. Những câu chuyện về hành trình trở về, những ngày làm việc không ngừng nghỉ tại Đài, kể cả trong lúc bom rơi đạn nổ, đã để lại cho chúng ta bài học về lòng yêu nước, sự hy sinh thầm lặng, cũng như niềm tự hào được đóng góp sức mình cho đất nước.

Tiếp theo, trong chương trình ngày 30 tháng Tư tới, chúng tôi sẽ giới thiệu với quý thính giả câu chuyện về ba thế hệ kiều bào trong một gia đình gắn bó với quê hương Việt Nam. Quý vị sẽ được nghe nhiều nội dung thú vị từ câu chuyện này.

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác