Chuyển hướng chiến lược vì chất lượng dân số và phát triển

(VOV5) - Dự thảo Luật Dân số trình Quốc hội nhấn mạnh chính sách dân số gắn với phát triển con người, hướng tới duy trì mức sinh thay thế và ứng phó già hóa dân số nhanh.

Công tác dân số là một trong những nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, gắn liền với nguồn nhân lực của quốc gia và sự phát triển bền vững của đất nước. Trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ giảm mức sinh thay thế và thách thức già hoá dân số, những ý kiến về dự thảo Luật Dân số trình tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, đã phản ánh tầm nhìn phát triển con người toàn diện, coi chính sách dân số là chính sách phát triển con người.

Theo dữ liệu dân cư quốc gia, hiện Việt Nam có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi, chiếm trên 16% dân số. Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Dự báo đến năm 2049, cứ 4 người dân thì có 1 người trên 60 tuổi. Điều này đồng nghĩa với việc tới đây, Việt Nam sẽ đối mặt với áp lực rất lớn về chăm sóc sức khỏe, đời sống tinh thần và an sinh xã hội cho người cao tuổi.

Cần duy trì mức sinh thay thế

Việt Nam đang đối mặt với tình trạng già hóa dân số và tỷ lệ sinh thay thế ngày càng giảm. Dự báo mức sinh thay thế của Việt Nam năm 2050 là 1,63 và năm 2100 là 1,38. Như vậy, trong thế kỷ XXI, mức sinh của Việt Nam giảm dưới mức thay thế (mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ).

Giải pháp cho vấn đề này là Việt Nam phải duy trì mức sinh thay thế. Muốn vậy, ngoài việc thay đổi nhận thức của người dân, rất cần có sự đồng bộ giữa hỗ trợ kinh tế, phúc lợi xã hội, giáo dục, y tế. Trong nhiệm vụ này, bên cạnh nỗ lực của Nhà nước, cần huy động sự tham gia của các tổ chức kinh tế, xã hội và doanh nghiệp. Cụ thể là mở rộng quy định về chủ thể có trách nhiệm hỗ trợ người lao động duy trì mức sinh, thông qua các chính sách linh hoạt về nghỉ sinh, hỗ trợ tài chính hoặc môi trường làm việc thân thiện. Tại phiên thảo luận của Quốc hội về dự thảo Luật dân số (ngày 10/11), đại biểu Tô Văn Tám, đoàn đại biểu tỉnh Quảng Ngãi, cho rằng nếu có sự chung tay của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp trong việc hỗ trợ chính sách đối với người lao động thì việc duy trì mức sinh mới thực sự khả thi.

Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đoàn thành phố Hải Phòng, cần mở rộng các biện pháp hỗ trợ phụ nữ chăm sóc con, như: phát triển hệ thống nhà trẻ, cơ sở trông giữ trẻ từ 6 tháng tuổi, nhất là tại khu công nghiệp, khu đô thị và vùng có nhiều lao động nữ.

 Chuyển hướng chiến lược vì chất lượng dân số và phát triển - ảnh 1Đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên, Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến tại phiên thảo luận về dự thảo Luật Dân số chiều ngày 10/11. Ảnh: Quốc hội

Đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên, đoàn đại biểu tỉnh Tây Ninh, cho rằng: "Bổ sung một số chính sách mang tính bền vững, thiết thực như hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông giữ trẻ giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập, đảm bảo chất lượng và chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân cho gia đình sinh đủ 2 con. Đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp có tính khuyến khích cao và phù hợp với xu hướng chính xác tại một số quốc gia đang đối mặt với tỷ suất sinh thấp".

Một trong những thách thức lớn hiện nay để duy trì mức sinh thay thế là tỷ lệ vô sinh, hiếm muộn có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và quy mô dân số. Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, chiếm khoảng 7,7% dân số. Chi phí điều trị rất cao và phạm vi chi trả bảo hiểm y tế còn hạn chế. Vì vậy, việc bổ sung quy định hỗ trợ điều trị vô sinh vào dự thảo luật Dân số, trong đó nhấn mạnh việc thanh toán bảo hiểm y tế cho dịch vụ chẩn đoán và điều trị vô sinh, là cần thiết. Đây cũng là một chính sách nhân văn, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc đồng hành cùng các cặp vợ chồng hiếm muộn, góp phần duy trì ổn định mức sinh quốc gia.

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đoàn đại biểu thành phố Hải Phòng,  cho rằng hỗ trợ vô sinh cần được xem là một cấu phần quan trọng trong chính sách dân số hiện đại. Bà Nga cho biết: "Duy trì mức sinh thay thế không thể chỉ nói đến những người ‘đang sinh ít’, mà còn phải quan tâm tới những người ‘muốn sinh nhưng không thể sinh. Cần có các chính sách hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và tư vấn tâm lý cho các cặp vợ chồng vô sinh; đồng thời giảm kỳ thị xã hội đối với việc điều trị hiếm muộn, xem đây là vấn đề y tế bình thường, cần được chia sẻ và hỗ trợ như các bệnh lý khác. Hỗ trợ vô sinh không chỉ giúp duy trì dân số mà còn thể hiện sự nhân ái, nhân văn của Nhà nước trong bảo vệ quyền làm cha, làm mẹ của công dân".

Chú trọng chất lượng dân số ở vùng sâu, vùng xa

Về chính sách hỗ trợ tài chính cho phụ nữ dân tộc thiểu số sinh con, nhiều ý kiến cho rằng chính sách cần được đưa ra một cách có trọng tâm. Hiện nay, tỷ suất sinh ở các nhóm dân tộc thiểu số từ 4 đến 4,3 con/phụ nữ, cao hơn gấp đôi mức trung bình cả nước. Tuy nhiên khoảng 20–24% phụ nữ sinh con tại nhà không được hỗ trợ y tế. Vấn đề ở đây là họ chưa có điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con tốt. Do đó cần tiếp tục cải thiện hạ tầng y tế, giáo dục, giao thông, đồng thời lồng ghép chính sách nâng cao vị thế kinh tế của phụ nữ dân tộc, giúp họ tự chủ hơn trong quyết định sinh sản.

Nhìn tổng thể, các ý kiến từ nghị trường đã cho thấy một sự thay đổi căn bản trong tư duy chính sách: dân số không còn là vấn đề “bao nhiêu người”, mà là chất lượng con người ra sao, và xã hội có tạo điều kiện cho họ phát triển hay không.

 Chuyển hướng chiến lược vì chất lượng dân số và phát triển - ảnh 2Hướng dẫn chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ người DTTS. Ảnh: Dương Ngọc/phunuvietnam.vn

Các giải pháp duy trì mức sinh, hỗ trợ vô sinh, chăm sóc trẻ em, nghỉ thai sản linh hoạt và phát triển vùng dân tộc thiểu số đều hướng đến mục tiêu chung: bảo đảm quyền sinh sản, bình đẳng giới và chất lượng cuộc sống cho mọi người dân.

Điều này cũng cho thấy Việt Nam đang tiệm cận với cách tiếp cận mới: coi chính sách dân số là chính sách phát triển con người.

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác