(VOV5) - VOV5 xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, Đại học Vin; PGS thỉnh giảng Đại học Sunshine Coast, Australia.
Cải cách thể chế là một trong những công việc trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta kể từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới cách đây gần 40 năm. Trong tất cả các báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khóa trước trình đại hội toàn quốc của Đảng cho nhiệm kỳ khóa tới từ Đại hội VI năm 1986 cho đến nay, vấn đề cải cách thể chế luôn được đặt ra và coi đó là trọng tâm công việc cần phải làm để nâng cao chất lượng quản lý và quản trị quốc gia, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt, từ đại hội XIII của Đảng năm 2021 cho đến nay, Đảng ta xác định cải cách thể chế là một trong 3 khâu đột phá chiến lược, cùng với phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực, để thực hiện hai mục tiêu phát triển 100 năm, là đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại và đạt mức thu nhập trung bình cao, và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Dự thảo báo cáo chính trị của BCHTW khóa XIII trình Đại hội XIV dự kiến được tổ chức vào tháng 1 năm 2026 cũng tiếp tục khẳng định 3 khâu đột phát này.
Cải cách thể chế, nhất là cải cách bộ máy chính quyền, luôn là một công việc khó đối với bất kỳ chế độ nào, bởi suy cho cùng là vì nó liên quan đền quyền lực và lợi ích. Hơn nữa, việc cải cách đó có thể dẫn đến nguy cơ gây bất ổn xã hội. Bài học khủng hoảng xã hội và chính trị do cải cách thể chế đã được chứng minh ở nhiều nơi trên thế giới, ngay cả ở những xã hội được coi là dân chủ vững chắc.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, giảng viên cao cấp Đại học Vin, Học giả Fulbright tại Đại học Hoa Kỳ. Ảnh nhân vật cung cấp |
Kể từ Hội nghị Trung ương 10 Khóa XIII vào tháng 9 năm 2024 cho đến nay, chúng ta đã tiến hành một cuộc cải cách thể chế và ‘sắp xếp lại giang sơn’ có thể coi là chưa từng có trong lịch sử. Tổng Bí thư Tô Lâm khi tiếp các nhà khoa học trong và ngoài nước dự Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 7 tại Hà Nội đã chia sẻ nhận xét của một nhà lãnh đạo nước ngoài với Tổng Bí thư, đại khái rằng “đợt cải cách và tinh gọn bộ máy vừa qua ở Việt Nam thực sự là mạnh mẽ, quyết liệt, nhanh và hiệu quả. Có lẽ chỉ có Việt Nam mới làm được như vậy, vì ở Việt Nam chỉ có một đảng cầm quyền và lãnh đạo.” Với sự khiêm tốn, chúng ta có thể ghi nhận đánh giá và “lời khen” tích cực của vị lãnh đạo nước ngoài này. Thực vậy, chúng ta hoàn hoàn có thể tự hào về những gì chúng ta đã làm trong vòng một năm qua với sự tham gia của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo quyết liệt, quyết đoán và hiệu quả của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, từ việc sắp xếp tinh gọn bộ máy nhà nước (giảm từ 22 xuống còn 17 bộ và cơ quan ngang bộ; giảm từ 8 xuống còn 5 ban đảng; và giảm từ 14 xuống còn 9 ủy ban chuyên trách của quốc hội), các tổ chức đoàn thể thuộc mặt trận tổ quốc Việt Nam, đến cuộc đại sắp xếp lại giang sơn (giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh thành phố) và thiết lập chính quyền địa phương hai cấp. Cho đến nay, theo đánh giá của Ban Tổ chức Trung ương, bộ máy chính quyền địa phương hai cấp đã đi vào hoạt động hiệu quả, mặc dù vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện bộ máy để hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả hơn đúng với tinh thần “vì nhân dân và phục vụ nhân được tốt hơn”. Với một cuộc “đại phẫu” thể chế và sắp xếp lại giang sơn trong một thời gian ngắn như vậy, quả đúng là “chỉ có Việt Nam mới làm được như vậy”! Vậy, câu hỏi cho các nhà chính trị học là: một chế độ chính trị chỉ với một đảng cầm quyền có là một lợi thế thể chế hay không?
Câu trả lời là trong hoàn cảnh của Việt Nam, một đảng cầm quyền và lãnh đạo, cộng với sự đồng lòng ủng hộ của toàn thể nhân dân, là một lợi thế về thể chế. Kinh nghiệm phát triển của các con hổ và con rồng kinh tế Đông Á cho thấy để phát triển kinh tế nhanh và mạnh, cần có một nhà nước mạnh, đóng vai trò là người kiến tạo. Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước với hai mục tiêu phát triển 100 năm, đưa nước ta vững bước trong kỷ nguyên mới của thịnh vượng, hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc, chúng ta cũng cần một nhà nước kiến tạo Đông Á kiểu Việt Nam, ở đó nhà nước đóng vai trò kiến tạo dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, mọi quyết sách “có lợi cho dân thì hết sức làm” một cách nhanh chóng, hiệu quả và quyết đoán.
Mọi so sánh là khập khiễng, nhưng nếu chúng ta liên hệ với việc đóng cửa chính phủ dài nhất trong lịch sử hiện nay ở Mỹ, tạo ra tình trạng hỗn loạn không chỉ trong hoạt động của các cơ quan công quyền vốn là “của dân, do dân và vì dân” mà còn trong các dịch vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày từ hàng không đến giáo dục, lợi ích thể chế dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền là rõ ràng. Một đảng cầm quyền và lãnh đạo thống nhất toàn hệ thống chính trị, từ trung ương đến cấp xã, đảm bảo một bộ máy hoạt động vì dân, vì nước, đặt lợi ích của người dân lên trên hết, lấy hạnh phúc và sự hài lòng của người dân là thước đo hoạt động, đó chính là lợi thế của thể chế.
TS Nguyễn Hồng Hải tại buổi nói chuyện chuyên đề do chi hội nhà báo VOV5 tổ chức. |
Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta trong 40 năm qua đã cho thấy, dưới sự lãnh đạo của một đảng cầm quyền, bằng những chính sách hợp lòng dân, với những cải cách thể chế phù hợp để thực hiện và biến những chính sách đó thành hiện thực, Việt Nam đã tạo ra một kỳ tích. Từ một đất nước bị bao vây cấm vận, lạm phát kinh tế xấp xỉ 800% do nóng vội chủ quan và sai lầm trong điều hành, Đảng ta đã dũng cảm nhìn vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, dũng cảm đổi mới, trong đó có những bước đi cải cách về thể chế, đất nước ta đã không chỉ từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội mà giờ đây đã trở thành một nước thu nhập trung bình thấp, vươn lên là nền kinh tế đứng thứ 32 trên thế giới và thứ 4 trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người hiện đạt xấp xỉ 5,000 đô-la Mỹ mỗi năm; có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia; thiết lập đối tác chiến lược toàn diện với 14 quốc gia, trong đó có cả 5 nước thường trực Hội đồng bảo an liên hợp quốc; đối tác chiến lược với 12 quốc gia, và đối tác toàn diện với 16 quốc gia. Việt Nam cũng đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, trong có cả những hiệp định mà chúng ta tham gia với tư cách là thành viên sáng lập. Đánh giá sự phát triển của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta nhất trí với nhận định trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng rằng “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Tuy nhiên, chúng ta cũng không ngủ quên trên vòng nguyệt quế. Những điểm nghẽn về thể chế mà như Tổng Bí thư Tô Lâm gọi đó là “điểm nghẽn của điểm nghẽn” đã cản trở khát vọng xây dựng đất nước hùng cường của chúng ta, và chắc chắn nếu không có những cải cách “xoay chuyển tình thế” thì sẽ không thể đạt được hai mục tiêu phát triển 100 năm của chúng ta.
Mỗi đất nước muốn phát triển đều dựa trên nhiều nguồn lực và lợi thế khác nhau, và những lợi thế đó có tính thời đại nếu không biết tận dụng. Thế nhưng, lợi thế lớn nhất của một đất nước và một chế độ không phải là có bao nhiêu tài nguyên, mà là thể chế và niềm tin của người dân vào thể chế đó. Việt Nam đang có cả hai lợi thế này. Với một thể chế do một đảng cầm quyền luôn “đặt lợi ích của người dân lên trên hết, trước hết” và luôn biết cải cách để thế chế được vận hành tốt hơn, và người dân đặt trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của một đảng đại diện cho lợi ích của họ, chúng ta kỳ vọng rằng Việt Nam sẽ lại tạo ra một kỳ tích phát triển nữa trong hai thập kỷ tới, trở thành một đất nước dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.