Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới

(VOV5) - Sau gần bốn thập niên kể từ cột mốc Đổi mới 1986, điện ảnh Việt Nam đã đi qua những khúc quanh đầy biến động để bước vào một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ, năng động bậc nhất trong các ngành công nghiệp văn hóa.

Doanh thu phòng vé vượt mốc 4.700 tỷ đồng năm 2024, trong đó phim Việt chiếm gần 1.900 tỷ – một kỷ lục chưa từng có. Song, đằng sau các con số ấn tượng ấy là câu hỏi lớn: Làm thế nào để thị trường điện ảnh Việt phát triển bền vững, vừa hội nhập sâu, vừa giữ được bản sắc dân tộc?

Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới - ảnh 1"Mưa đỏ" - bộ phim của Điện ảnh Quân đội Nhân dân, do Nhà nước (Bộ Quốc phòng) đầu tư, công chiếu năm 2025, đạt doanh thu 578 tỷ đồng sau 19 ngày công chiếu, phá vỡ mọi kỷ lục phòng vé của điện ảnh Việt.
Cơ hội vàng và thách thức của điện ảnh Việt trong thời kỳ hội nhập

Giáo sư – Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội, trong tham luận tại hội thảo Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam nhấn mạnh: Điện ảnh – ngay từ khi ra đời – đã là ngành nghệ thuật gắn liền với thị trường, nơi khán giả không chỉ là người thưởng thức mà là yếu tố sống còn. Điện ảnh khác với các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ: “muốn tồn tại, phải có người xem và phải có thị trường tiêu thụ.”

Theo ông, để thật sự phát triển, thị trường điện ảnh Việt Nam cần “cú hích” từ cả ba phía: người làm phim – cơ chế chính sách – khán giả. Ông nhấn mạnh: “Hiểu người xem muốn gì, cần gì trong bối cảnh hội nhập mà không hòa tan là một loại tài năng. Làm phim hay thôi chưa đủ, mà phải làm phim khiến người xem muốn đến rạp.”

Nhìn vào đồ thị tăng trưởng, nhà phê bình Lê Hồng Lâm gọi giai đoạn hiện nay là “thời điểm vàng để điện ảnh Việt Nam cất cánh.” Từ bộ phim Gái Nhảy (2003) đến Em chưa 18 (2017), rồi Bố giàMai hay Lật mặt 8, điện ảnh Việt đã chứng kiến sự trỗi dậy mạnh mẽ của phim thương mại nội địa – dòng phim biết kết hợp giữa yếu tố giải trí và bản sắc văn hóa. Theo Box Office Vietnam, trong 6 tháng đầu năm 2025, dù chỉ chiếm chưa đến 1/6 số lượng phim phát hành, phim Việt đã chiếm tới 67% thị phần doanh thu, với tám trong mười phim ăn khách nhất là phim nội.
Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới - ảnh 2Nhà phê bình điện ảnh Lê Hồng Lâm

"Mới 10 tháng 2025, đã có 13 bộ phim Việt Nam doanh thu trên 100 tỷ đồng. Con số tăng trưởng ấn tượng trong khi các nước trên thế giới hầu như đều bão hòa. Giờ do sự phát triển quá nhanh của nội dung trực tuyến, nên hầu như chỉ có những phim mang lại trải nghiệm điện ảnh quá đặc biệt, không xem ở nhà thì người ta mới đi, còn đa số xem ở nhà, nhưng khán giả Việt Nam vẫn ra rạp xem phim. Nếu 2014 chúng ta có 1 phim đạt doanh thu trên 100 tỷ đồng, 2015 có 5 phim, thì 2025 có 13 phim khi mới chỉ đến tháng 10. Và có 5 bộ phim của năm 2025 lọt top 10 phim Việt ăn khách nhất mọi thời đại. Việt Nam được coi là một trong những thị trường điện ảnh phát triển nhanh nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng trung bình 20% trong những năm gần đây, mà đa số là năm 2024 và đầu năm 2025 này. Chưa có thống kê chính thức, nhưng doanh số của thị trường Việt Nam đạt hơn 3100 tỷ, và dến cuối năm có thể đạt 9000 tỷ." - nhà phê bình Lê Hồng Lâm nói.

Không chỉ phim hài – tâm lý – gia đình, mà phim chiến tranh – sử thi cũng bất ngờ trở lại đỉnh cao. Mưa đỏ của đạo diễn Đặng Thái Huyền đạt doanh thu hơn 714 tỷ đồng, thu hút hơn 8 triệu lượt khán giả – kỷ lục trong lịch sử điện ảnh Việt. Cùng với Địa đạo (Bùi Thạc Chuyên) và Tử chiến trên không (Hàm Trần), những bộ phim lấy cảm hứng từ lịch sử đã chứng minh sức hấp dẫn lâu dài của các giá trị dân tộc khi được kể bằng ngôn ngữ điện ảnh hiện đại.

“Thành công của Mưa đỏĐịa đạo không chỉ là thắng lợi của phòng vé, mà là sự trở lại đầy tự tin của dòng phim nhà nước sản xuất,” – nhà phê bình Lê Hồng Lâm nhận định: Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy khán giả Việt đã sẵn sàng đón nhận những câu chuyện lịch sử, miễn là chúng được kể hấp dẫn và chân thực: "Thị trường điện ảnh Việt Nam còn phát triển 5-10 năm nữa. Chúng ta phải đón đầu được thời điểm bão hòa và đi xuống, phải có những chính sách để tìm ra được những câu chuyện, những bài học nào để giữ chân khán giả Việt Nam trong những năm tiếp theo."

Doanh thu phòng vé và phát triển bền vững: điện ảnh Việt cần cơ chế dài hạn

Một trong những chuyển động quan trọng của ngành là sự đổi mới trong quản lý nhà nước, đặc biệt với sự ra đời của Luật Điện ảnh năm 2022. Tiến sĩ Đỗ Quốc Việt, Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh, cho rằng: “Luật Điện ảnh 2022 đã mở ra hành lang pháp lý thông thoáng, khi lần đầu tiên áp dụng cơ chế ‘hậu kiểm’ với phim phổ biến trên không gian mạng. Đây là cải cách hành chính lớn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy tính tự chủ và trách nhiệm.”ơ chế “hậu kiểm” – tức để doanh nghiệp tự phân loại, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn nhà nước chỉ giám sát sau – đã giúp hoạt động phổ biến phim trực tuyến bùng nổ. Doanh thu OTT (dịch vụ cung cấp nội dung trực tuyến qua internet) tại Việt Nam năm 2024 ước đạt hơn 3.000 tỷ đồng, trở thành mảng song hành cùng phòng vé truyền thống.

Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới - ảnh 3Tiến sĩ Đỗ Quốc Việt, Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh chia sẻ tại hội thảo “Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam”

Song, ông Việt cũng cảnh báo: thị trường mạng cần được giám sát chặt chẽ để tránh tình trạng “thả gà ra đuổi”, bởi tự do sáng tạo phải đi đôi với trách nhiệm xã hội và chuẩn mực văn hóa: "Việc thể chế công tác quản lý phải xuất phát từ cơ sở dữ liệu, tức là xây dựng cơ sở dữ liệu để từ đó chúng ta phân tích các chỉ số để đưa ra công tác phát triển thị trường một cách khoa học. Chúng tôi cũng đề xuất đưa ra những chính sách phù hợp hơn với tình hình mới."

Không chỉ là câu chuyện sáng tạo và quản lý, thị trường điện ảnh Việt đang bước vào giai đoạn cần hạ tầng dữ liệu, khung pháp lý và đầu tư thông minh. Ông Tô Quang Định, Giám đốc Cinepost Hà Nội,  khi chia sẻ về cơ sở hạ tầng và công nghệ sản xuất trong phát triển điện ảnh Việt Nam, cho biết về hiện trạng: Việt Nam tồn tại cả nền tảng kỹ thuật số và phim nhựa của điện ảnh, mặc dù dữ liệu còn rất tốt nhưng hệ thống trình chiếu phim nhựa tại Việt Nam đã không còn nữa.

Theo ông Nguyễn Cao Tùng, nhà sáng lập – Giám đốc điều hành 1 – ALL Starss: Việc đo lường “thành công” của một bộ phim không thể chỉ dừng ở doanh thu phòng vé: “Thành công cần được nhìn nhận từ nhiều chiều cạnh: tài chính, tiếp thị, lan tỏa xã hội và giá trị thương hiệu.” Ông đề xuất xây dựng một bộ chỉ tiêu đa tầng, bao gồm hiệu quả tài chính, phản hồi khán giả trên mạng xã hội và tác động văn hóa, nhằm định lượng chính xác giá trị của phim Việt. Đây là cách tiếp cận hiện đại, giúp nhà sản xuất, nhà đầu tư và cơ quan quản lý đánh giá đúng tiềm năng thương mại và xã hội của phim.
Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới - ảnh 4Ông Nguyễn Cao Tùng, nhà sáng lập – Giám đốc điều hành 1 – ALL Starss

"Bảng mà tôi đề nghị cho việc áp dụng vào đo lường gồm 6 chỉ số: Thứ nhất là Tổng thảo luận (ví dụ có đạt được 100-200 triệu lượt tiếp cận hay không; tổng lượng xem trong tuần công chiếu, tháng công chiếu; tỷ lệ khán giả nói thực sự về phim (tức là khán giả thực sự chứ không phải chạy seeding). Khán giả thực sự phải chiếm 40%. Điểm yêu thích (centimet) tích cực phải hơn 0.7. Và cuối cùng là góc nhìn người dùng chất lượng (những nhà phê bình phim, những đạo diễn, những người trong ngành, những nhà sản xuất...) nói tốt về phim hay không, đây là chỉ số có đạt 10 điểm hay không, tổng số này cộng lại chia cho 60 và nhân với 100% hay không, là chỉ số biết được phim có đạt trăm tỷ hay không." -Ông Nguyễn Cao Tùng nói.

Ông Ngô Thanh Hiển, Phó cục trưởng Cục Thông tin cơ sở và thông tin đối ngoại, (Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch) – chỉ ra tác động sâu rộng của thuật toán, big data và OTT đối với chuỗi giá trị điện ảnh: Cần xây dựng hệ thống dữ liệu điện ảnh quốc gia, minh bạch hóa thuật toán, cho phép kiểm toán độc lập; thành lập Quỹ điện ảnh Việt Nam, áp dụng mô hình chia sẻ lợi ích và blockchaine. Thuật toán và chuỗi cung ứng số đang tái định nghĩa “quyền lực” trong nghệ thuật. Việt Nam cần hành động chiến lược để đảm bảo sự công bằng và đa dạng văn hóa.
Loạt bài Phát triển thị trường nghệ thuật Việt Nam - Bài 2: Giấc mơ thị trường điện ảnh – từ tiềm năng đến sức bật mới - ảnh 5Ông Ngô Thanh Hiển, Phó cục trưởng Cục Thông tin cơ sở và thông tin đối ngoại, (Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch)

Những kiến nghị này mở rộng tầm nhìn phát triển điện ảnh không chỉ như một lĩnh vực văn hóa, mà là một ngành công nghiệp sáng tạo hoàn chỉnh: có thị trường, luật chơi và công cụ bảo vệ quyền lợi cho mọi chủ thể.

Với dân số 100 triệu người, tốc độ đô thị hóa nhanh và thói quen đến rạp ngày càng phổ biến, Việt Nam đang được xem là một trong những thị trường điện ảnh tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Từ sự chuyển mình của chính sách, sự năng động của khu vực tư nhân, đến sự khởi sắc của phim nhà nước và OTT, điện ảnh Việt Nam đang đứng trước “thời điểm vàng” để cất cánh, như lời của nhà nghiên cứu Lê Hồng Lâm.

Nhưng để cất cánh thật sự, thị trường ấy cần được nuôi dưỡng bằng tầm nhìn dài hạn – nơi chính sách, đào tạo, công nghệ và khán giả cùng song hành. Như lời của GS.TS Trần Thanh Hiệp: “Phim Việt không cần được ‘giải cứu’. Phim Việt chỉ cần được làm đúng, được làm hay, và được tôn trọng như một phần của đời sống tinh thần dân tộc.”

Tin liên quan

Phản hồi

Các tin/bài khác